Đó là lời của người bạn thân, một nhà thơ đương đại, một người trẻ nổi tiếng đang sống trên đất Sài Gòn. Mà đúng vậy, Sài Gòn mùa này cúng nhiều lắm, không như cách đây năm năm, mười năm, hai mươi năm và xa hơn thế. Một thành phố vốn dĩ được xem là trung tâm văn hóa, cái rốn văn minh của Việt Nam, thậm chí của khu vực, mệnh danh “hòn ngọc viễn đông” bỗng dưng trở thành cái ổ dị đoan, điều này do đâu mà ra?
Chính xác là ba năm trở lại đây, kể từ khi dịch COVID-19 cướp đi hàng vạn người thành phố, một thành phố tang tóc kéo dài, con người trở nên sợ hãi trước tai ương, và, nỗi sợ hãi đó được bù đắp bằng việc cúng kính, thay vì tin vào một chính sách duy lý mà lâu nay vốn là.
Người ta kéo nhau vào Sài Gòn sinh sống, làm ăn, vì tin vào năng lực kinh tế của thành phố này, hay nói đúng hơn là tin vào chính sách duy lý của những người quản lý thành phố, ở đó, công việc, đồng tiền, sự tự do đi lại để làm việc hay tính năng động của đầu tàu kinh tế cả nước thu hút người ta đến. Thế rồi, cũng chính cái đầu tàu kinh tế này bỗng chốc trở thành cái đại nhà tù, giam hơn sáu triệu mạng người trong bệnh tật, báo động đỏ, thiếu thốn, chết chóc... Và, những ai không trụ nổi với sự ngột ngạt ấy, người ta phải chết, chết một cách đau đớn, tức tưởi và oan khốc!
Những người còn lại, nhất là những người tha hương, lập nghiệp trên đất Sài Gòn, họ sẽ nhìn thấy một khoảng trống quá lớn trong lòng họ, họ đâm sợ hãi, họ bất an, và họ lo lắng cho những người thân, những đồng hương đã bỏ mạng trong cuộc đại giam oan khốc mang tên Sài Gòn Giới Nghiêm, Sài Gòn Phong Tỏa... Cuộc sống trở nên bấp bênh, vô thường hiện ra trong từng phút, người ta không con bấu víu, trông chờ vào chính sách duy lý, vào thành phố năng động nữa, người ta trông mong, nhờ cậy thần linh.
Và, những gì tưởng như chỉ xuất hiện, chỉ có ở vùng quê hoặc các chùa chiền, đền đài miếu mạo, bây giờ có mặt khắp hang cùng ngỏ hẻm Sài Gòn. Người ta tổ chức cúng cuối năm, cúng đầu năm, trống chiêng, kèn thổi inh ỏi, bắc loa đọc sớ cúng như thể đang diễn tuồng... Mọi thứ nghi thức vốn dĩ rất xa lạ với Sài Gòn bỗng dưng xuất hiện mọi nơi.
Và, điều đó lý giải cho việc tại sao người miền Bắc, người ngay trung tâm Hà Nội hay người miền Trung lại rất chuộng cúng kính, nhương sao giải hạn, tranh giành lộc đầu năm và sẵn sàng giẫm đạp lên nhau để cầu an, lấy lộc.
Một đất nước trải qua rất nhiều chết chóc chiến tranh, hồn ma cũ - mới có mặt khắp đời sống, người ta cố gắng không tin hoặc cố gắng để tin vào chính sách duy lý mà làm ăn, hơn nữa, quá trình “chống mê tín dị đoan”, đập bỏ đền đài miếu mạo, lăng tẩm của thời kinh tế tập trung bao cấp phần nào đó hạn chế các hoạt động cúng kính có tính tập thể.
Thế rồi, với cái bụng đói meo, tranh ăn, chịu nhục vì miếng ăn, những đoàn rồng rắn chuột mèo nối nhau chực chờ lát thịt, cân gạo, cân khoai lang khô hay cân bắp khô đã biến con người trở thành cái máy xay thức ăn, bất chấp vì miếng ăn, miếng ăn định giá nhân cách, định giá phẩm hạnh và định giá con người trước xã hội.
Sự thao thức, nỗi khát khao miếng ăn ấy hình như ăn dằm trong khí huyết người Việt một cách thụ động, từ dân thường cho đến các quan chức, người bình dân, lâu ngày không gặp nhau, gặp lại thì hẹn nhau đi nhậu, đi ăn uống, việc ấy cứ như một phép lịch sự thay thế “miếng trầu là đầu câu chuyện” một thuở, quan chức càng bạo hơn, có phi vụ hay áp phe gì, có bất kì lễ gì đều tổ chức ăn uống, hát hò, cơ quan cấp nhỏ thì ăn uống, hát họ tại chỗ hoặc nhà hàng hạng vừa, cơ quan cấp cao thì ăn uống ở nhà hàng sang trọng, có thêm gái chân dài hoặc đồng nghiệp nữ, thuộc cấp có tướng mạo tốt đến phục vụ, thậm chí phục vụ từ A tới Z.
Tâm thức vật dục hoàn toàn chi phối xã hội, và, khi con người len lỏi, quay cuồng, mệt mỏi, đau đớn, bất an và buông chân trong thế giới vật dục ấy, nỗi cô đơn bản thể sẽ xuất hiện, cái nỗi cô đơn ấy đến một cách tự nhiên, chẳng cần cưỡng cầu. Nhưng hướng giải quyết thì có cưỡng cầu, theo nhu cầu của lý trí. Thay vì người ta tìm đến với thế giới tinh thần lành mạnh bằng động cơ tâm hồn trong lành thì người ta tìm đến thế giới tinh thần nhuốm màu vật dục của một động cơ hay căn tính vốn dĩ đã nhuốm màu vật dục, đời sống xã hội bị đưa đẩy bởi vật dục và dù ghét hay thương, người ta vẫn chạy bằng đôi chân vật dục.
Tỉ như có hàng triệu người không ưa, thậm chí ghét hình ảnh ông Bộ trưởng Công an Tô Lâm há mồm ăn miếng thịt bò dát vàng nhưng trong sâu thẳm người ta ngầm hiểu rằng phải có nhiều tiền, thật nhiều tiền mới được ăn miếng bò dát vàng một cách thoải mái, đầy khoái cảm như ông Lâm và phải có quyền lực hô mưa gọi gió mới không hề hấn gì sau khi há mồm ăn miếng thịt làm ảnh hưởng tới hình ảnh một đảng viên Cộng sản cao cấp như ông Lâm.
Rõ ràng, trong sâu thẳm, với động cơ vật dục đưa đẩy, người ta, mà rất nhiều người cũng công khai hoặc ngấm ngầm thèm muốn cái Tô Lâm đang nắm giữ. Đó là sự thật cho một dân tộc quá nhiều mặc cảm và người tỉnh thức ngày càng ít đi nhưng người bị chi phối bởi vật dục ngày càng đậm đặc.
Sự chi phối vật dục đậm đặc đến mức con cháu cúng kính, tưởng nhớ ông bà tổ tiên cũng cầu xin ông bà tổ tiên phù hộ cho làm ăn thật giàu có, thật nhiều tiền và hứa nếu có nhiều tiền sẽ xây mộ ông bà, tổ tiên thật to lớn.
Chi phối đến độ bất kỳ lễ cúng gì, ngay cả những hoạt động tâm linh ở các chùa, nhà thờ bây giờ cũng đậm mùi cầu tài, cầu lộc, cầu chức. Ngay cả các hoạt động nhương sao, giải hạn vốn dĩ là hoạt động có tính vị tha nhân của các nhà chiêm tinh thuở xưa, làm miễn phí, thì bây giờ, nó trở thành một loại hình lấy tiền, đổi chác.
Loại hình “cầu thần tài” cũng lên ngôi, chuyện các cô gái trẻ cho thần tài cạ vào nhũ hoa mỗi khi cúng thần tài (mồng 10 âm lịch hằng tháng) cũng là một hình thức hối lộ tình dục cho thần linh. Thử nghĩ, với thần linh người ta còn dám hối lộ tình dục thì nghĩa lý gì người trần mắt thịt mà không dám? Hình thức hối lộ tình dục đã trở thành một nghi lễ của người Việt.
Nhìn chung, mọi thứ bị cưỡng bức gỡ bỏ cũng do đảng Cộng sản, những năm 1980 thế kỉ trước là bài học đắt giá, rồi hình thức buôn thần bán thánh cũng là do người Cộng sản, hiện tại, có ai nhiều tiền và đủ thế lực đứng sân sau các chùa chiền, miếu mạo để thu lợi tức hơn người Cộng sản? Không phải vô duyên vô cớ mà khi nhắc tới Thiền viện Trúc Lâm Cần Thơ thì người ta nhắc tới cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhắc tới chùa Linh Ứng và chùa Bà Nà ở Đà Nẵng thì nhắc tới gia đình Nguyễn Bá Thanh, nhắc tới chùa Ba Vàng thì nhắc tới cựu Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và còn hàng trăm ngôi chùa lớn trên đất nước này đều có các ông kễnh đứng sân sau. Đương nhiên, lợi nhuận thu về từ con nhang, Phật tử đều được chia một cách rành mạch và sòng phẵng, có tỉ lệ phần trăm và có quảng cáo, có diễn xuất, có chương trình, kịch bản hẳn hoi...
Trở lại chuyện Sài Gòn trở nên như hiện tại, tức chuyện cúng kính cuối năm, đầu năm, các lễ âm binh diễn ra khắp hang cùng ngõ hẻm, không phải tự dưng mà có, cũng do ông Cộng sản mà ra. Không thể nói khác đi được!
Bài bình luận gần đây