Trí tưởng tượng "phong phú"
Cách đây một năm, ngày 30/4/2020, Nguyễn Chí Vịnh, có bài trả lời mạng VTC về ngày “Chiến thắng 30/4/1975”.
Theo dõi cuộc phỏng vấn, dù đã một năm, ngẫm lại những điều ông Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã nói, cho thấy rằng vẫn tư duy và luận điệu cũ rích của nhà cầm quyền CSVN đối với cuộc chiến, đối với hậu quả cuộc chiến, với những người dân Việt Nam chịu đau khổ dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua.
Theo bài trả lời phỏng vấn, người ta mới thấy trí tưởng tượng của người Cộng sản thật phong phú, nhưng đó là sự phong phú nhưng rất bệnh hoạn.
Phong phú!
Sở dĩ nói được như vậy, chỉ vì qua những lời nói của họ, chúng ta hiểu được điều này: Bất chấp thực tế đang diễn ra trước mắt, trong thực tế cuộc sống, trên mỗi cá nhân, tổ chức, mỗi địa phương cũng như những toàn cảnh đất nước, và rộng hơn, là vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, những lời của người cộng sản Việt Nam vẫn là “không biết, không nghe, không thấy”.
Và họ cứ nói theo cái suy nghĩ của họ, theo bài vở mà họ được đọc, được phép nói, được phép suy nghĩ… tất cả theo lệnh đảng.
Ở đó, họ vẽ ra những điều tốt đẹp, về những cái mà nhiều khi trí tưởng tượng bình thường cũng ít khi nghĩ ra trong đời sống xã hội Việt Nam hiện tại.
Nhưng họ nói một cách tự nhiên, không hề ngượng ngập hay có chút phân vân, cũng chẳng quan tâm đến đằng sau những lời nói đó, sẽ là sự đồng ý, cái gật đầu hay là một cái nhếch mép, cái mỉa mai hoặc là sự phẫn nộ. Chính vì vậy mà họ cứ tự nhiên tưởng tượng, tự sướng và bay bổng với những suy nghĩ của họ.
Chẳng hạn chúng ta nghe Nguyễn Chí Vịnh nói như sau: “Thời đại Hồ Chí Minh là đỉnh cao của lịch sử dân tộc và chiến thắng 30/4 là dấu ấn đậm nét nhất của đỉnh cao đó. Tất cả có được là nhờ sự lãnh đạo của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt và sự hy sinh anh dũng của toàn dân, toàn quân ta…
Trước hết, tôi muốn nói đến ý nghĩa của ngày 30/4. Đối với chúng ta hôm nay, đầu tiên là niềm tự hào. Đó là nhận thức về sự vĩ đại của chiến thắng giành độc lập, tự chủ, thống nhất toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ”.
Thời đại rực rỡ đó như thế nào?
Trước hết là về kinh tế, cuộc sống người dân vẫn lầm than và khốn nạn trong thân phận kẻ làm thuê, kẻ tôi đòi cho chính ngay những đất nước, những dân tộc mà chính đảng CSVN đã từng không biết bao lần lớn tiếng nhục mạ rằng đó chỉ là những “chó săn đế quốc”, những “con đĩ chính trị”, những tay sai ngoại bang…
Mỗi đầu người dân Việt Nam trong thời đại rực rỡ nhất, đều phải chịu hàng chục triệu tiền nợ công và cứ tăng, tăng mãi không ngừng. Di sản để lại cho con cháu là gì ngoài tài nguyên khoáng sản, rừng vàng biển bạc đã bị khai thác triệt để dù để bán lỗ, bán tháo cho nước ngoài để rồi sau đó mua lại với giá cao hơn nhiều lần.
Về chính trị, mỗi người dân sẵn sàng là một người tù dự khuyết, nếu họ có tinh thần yêu nước, vì lãnh thổ của Tổ Quốc hoặc ít nhất vì những quyền được sống, được tự do cơ bản nhất như ngôn luận, tư tưởng và báo chí, tôn giáo… Hàng trăm tù nhân đã là minh chứng rõ ràng nhất cho điều này.
Những người tù nhân lương tâm ở Việt Nam hiện nay là ai? Là những người xuống đường thể hiện tình yêu nước, chống xâm lược nhưng thế lực xâm lược đã và đang là bạn vàng của đảng. Là những người đã bày tỏ chính kiến của mình, thể hiện sự không đồng tình với chính sách phản dân, hại nước, với bộ máy tham nhũng khổng lồ mà tài nguyên đất nước, tài sản xã hội, tiền của nhân dân cứ đội nón ra đi, bị đốt như đốt lá rừng trong hàng loạt những vụ tham nhũng đã bị lộ và chưa bị lộ. Là những người đã cất tiếng nói cho quyền được lên tiếng dù chỉ là những tiếng rên xiết của dân nghèo bị cướp bóc đất đai, nhà cửa một cách trắng trợn.
Thời đại rực rỡ là thời đại mà mỗi công dân sẵn sàng bị biến thành tù nhân bằng chính những nhà tù, những đội quân vũ trang, những thiết bị đàn áp hiện đại mà tiền của để xây dựng ra là máu xương của họ.
Thời đại rực rỡ là thời đại mà mối quan hệ giữa người và người trong xã hội đã bị biến đổi từ một xã hội lấy tình yêu thương lẫn nhau làm trọng được thay thế bằng xã hội lấy bạo lực, lừa đảo làm đầu? Đạo đức xã hội suy đồi, giáo dục lạc hướng, tụt hậu và nguy hiểm vì chỉ đển đào tạo ra những cỗ máy cho sự tồn vong của đảng độc tài?
Và thời đại Hồ Chí Minh là đỉnh cao của lịch sử dân tộc ư? Có nghĩa là lịch sử dân tộc này chỉ có thể phát triển được đến mức độ như thời đại ngày nay là tận cùng và không thể khác?
Khi một đất nước, một dân tộc tự đặt cho mình một giới hạn, bị kìm hãm bởi chỉ một chiếc vòng kim cô, thì có nghĩa là khi đó, dân tộc đó, đất nước đó sẽ không còn cơ hội để phát triển hơn. Mà quy luật của vạn vật, của xã hội và tự nhiên là sự phát triển không ngừng.
Do vậy, khi một xã hội bị dừng lại ở một giới hạn nhất định, thì có nghĩa là xã hội đó sẽ đi vào suy tàn do tụt hậu và thoái hóa.
Còn việc giành độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ ư?
Cả Miền Nam Việt Nam được đặt dưới một chế độ cộng hòa, có một nhà nước do người dân bầu lên, lực lượng quân sự nước ngoài có mặt tham gia cuộc chiến bằng những hiệp ước, hiệp nghị bằng giấy trắng mực đen và tuân thủ theo những quy định đó. Vậy thì độc lập và tự chủ không vì những yếu tố nước ngoài do chính quyền đó chủ động. Bởi như chúng ta đã thấy và thực tế đã chứng minh: Cái gọi là “Đế quốc Mỹ xâm lược” chưa hề lấn chiếm hoặc đóng giữ trái phép một tấc đất nào của Việt Nam cho đến nay.
Còn ngày nay, đang có những phần lãnh thổ của Tổ Quốc, của đất nước đang nằm dưới gót giày quân xâm lược thực sự. Đó là Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, là hơn 15.000 km vuông lãnh thổ trên bộ và Quần đảo Hoàng Sa, một phần quần đảo Trường Sa đang nằm dưới sự cai trị của bạn vàng của đảng, đang bị chiếm đóng bằng vũ lực, bằng sự tấn công diệt chủng những người lính yêu nước của Việt Nam mà chiếm lấy.
Về mặt nhà nước, những hoạt động của những kẻ đứng đầu đất nước là sự khúm núm, sợ hãi trước kẻ thù của dân tộc, là trấn áp những người phản đối xâm lược lộ rõ sự nô lệ và thái độ cõng rắn cắn gà nhà một cách không thể biện minh.
Đó là độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ ư?
Hòa giải và hòa hợp?
Cũng trong bài trả lời phỏng vấn đó, Nguyễn Chí Vịnh nói rằng: “Dân tộc Việt Nam đã khắc phục hội chứng chiến tranh rất nhanh. Việt Nam không còn hội chứng chiến tranh ngay khi chiến tranh chấm dứt. Đó là điều “rất Việt Nam”.
Một số nước, như Mỹ chẳng hạn, hội chứng chiến tranh rất nặng nề. Mặc dù họ không bị tàn phá, không mất mát nhiều như chúng ta. Tâm lý này khó đong đếm, nhưng là cản trở lớn nhất cho sự phát triển của một đất nước sau khi trải qua chiến tranh”.
Có lẽ cần phải nói lại điều này. Trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ cách đây hơn 150 năm trước, chỉ sau lệnh đầu hàng của quân Miền Nam thì những người Miền Bắc chiến thắng đã lệnh cho quân sĩ không được nổ súng, không được reo hò mừng chiến thắng và nhất là không được có thái độ kỳ thị khinh rẻ các chiến binh Miền Nam bại trận.
Tài sản, công cụ chiến tranh của những người lính Miền Nam là những con ngựa chiến đã không bị tịch thu mà được trả cho mang về quê để làm ăn sinh sống.
Tất cả những người lính đã chết trên chiến trường đều được an táng cạnh nhau theo và dưới những nấm mộ bằng phẳng dưới mặt đất như nhay. Lời của Tổng thống Lincoln khi cung hiến nghĩa trang này, rằng đây là “nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hiến dâng mạng sống mình để Tổ quốc được sống”.
Ở đó, không có những cuộc reo hò chiến thắng dai dẳng và nhầy nhụa như chiến thắng 30/4.
Ở đó không có những nghĩa trang dài khắp mọi miền đất nước dành cho binh sĩ phe thắng cuộc và sự tủi nhục của những thân phận người lính bên thua cuộc đã chết cũng như đang sống lay lắt, âm thầm và đau đớn khắp mọi xó, mọi nẻo.
Ở đó không có những cuộc “tập trung học tập cải tạo” rồi kéo dài triền miên và thậm chí hàng loạt người mất xác sau khi được lệnh đi học tập.
Ở đó, cũng không hề có sự phân biệt vùng, miền để đặt sự cai trị của Miền Bắc lên Miền Nam sau bại trận.
Ở đó không hề có sự phân biệt lý lịch là con cái, cháu chắt của ngụy quân, ngụy quyền để phân biệt đối xử…
Ở đó, cũng không có những cuộc nhảy nhót reo mừng chiến thắng một cách lỳ lợm đến tận nửa thế kỷ vẫn cứ lấy “chiến thắng” chính đồng bào mình ra để tự sướng và làm nhục hàng chục triệu người khác.
Vậy nhưng, theo Nguyễn Chí Vịnh, thì “hội chứng chiến tranh của Mỹ rất nặng nề và cản trở sự phát triển của đất nước”… có lẽ vì vậy mà nước Mỹ luôn dẫn đầu thế giới về mọi mặt, còn ở Việt nam thì không có hội chứng chiến tranh, nên luôn đứng đầu thế giới ở phía ngược lại?
Và điều nực cười hơn nữa là Nguyễn Chí Vịnh nói: “các chính sách của Đảng và Nhà nước giúp những người trong chế độ cũ cảm thấy không bị kì thị, miễn là họ yêu nước. Chúng ta cũng không quay lại bới móc chuyện họ đã làm cho những kẻ xâm lược…Theo quan điểm của tôi, hoà giải, hòa hợp dân tộc đã thành công, nhờ chính sách khoan dung của Đảng, Nhà nước, nhưng quan trọng nhất là nhờ sự phát triển đất nước”.
Nghĩa là những những kiều bào ở nước ngoài, những người đã làm cho chế độ cũ đã làm cho những kẻ xâm lược? Đó là những kẻ xâm lược nào? Những kẻ xâm lược đó hiện nay ở đâu? Phải chăng, những kẻ xâm lược đó là những kẻ đang chiếm đóng bằng vũ lực cách trái phép Hoàng Sa, Trường Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc là điển hình cùng hàng chục ngàm cây số vuông biên cương Tổ Quốc?
Và phải chăng, những kẻ đã “làm cho kẻ xâm lược”, chính là những kẻ đã đàn áp những người chống xâm lược bành trướng bằng những cuộc biểu tình yêu nước hoặc những người đã cầm súng chống giặc bành trướng phương Bắc đang bị tống vào tù?
Và “nhờ chính sách khoan dung của đảng”? Đảng khoan dung đến vậy ư? Hàng vạn người tù đày, hàng ngàn người bỏ mạng trong các nhà tù hoặc thân tàn ma dại khi ra khỏi tù là chính sách khoan dung? Họ có tội với đảng ư, sao đảng được quyền “khoan dung” với họ?
Cuộc hòa giải, hòa hợp dân tộc đã xong ư?
Có lẽ điều này không cần nói nhiều. Bởi có lẽ trên thế giới, ít có một quốc gia nào, mà khi người lãnh đạo đất nước đến với nơi có nhiều công dân của mình nhất, có nhiều “khúc ruột ngàn dặm” nhất của đảng, thì những cuộc đón tiếp là đông đảo bằng khẩu hiệu, bằng la ó và bằng con đường đi của họ là cửa sau. Thậm chí rất hiếm khi họ dám có mặt công khai tại những nơi mà công dân mình, đồng bào mình có mặt.
Đã nửa thế kỷ trôi qua, những người có tấm lòng yêu đất nước, yêu dân tộc vẫn chỉ là những người tỵ nạn cộng sản mà không thể về quê hương bản quán.
Họa chăng, chỉ có vài kẻ đã cam tâm bán mình cho quỷ dữ có thể vì miếng ăn hoặc do nhận thức mà có tiếng nói lạc lõng yếu ớt ngay chính nơi mình sinh sống. Những kẻ đó đang chứng minh khả năng kỳ tài học được từ cộng sản là bất chấp mọi thứ, từ liêm sỉ bản thân cho đến phản bội lại đồng đội, chửi bới chính cha ông mình để bưng bô một chế độ độc tài man rợ.
Và trừ khi mang hia, đội mũ về theo đảng, phần còn lại cuộc đời họ phải co rúm trong hang ổ của mình trước sự kinh tởm, khinh rẻ của cộng đồng xung quanh luôn ghê tởm như những con chó ghẻ lở và bệnh hoạn.
Vậy là hòa giải thành công?
Như ở trên chúng tôi đã nói. Khi một người cứ nói thao thao bất tuyệt mà bất chấp thực tế đã và đang diễn ra ngược lại. Bất chấp những sự thật diễn ra trước mắt, những trải nghiệm và sự kiện dày đặc chứng minh những lời nói của họ là sự “ngáo đá”, bất chấp những phản đối hoặc thái độ không thèm nói lại của người nghe… thì khi đó, những lời nói và hành động của họ có sự không bình thường.
Đó là sự không bình thường của những người có tâm thần không bình thường.
Còn ở đây, khi nghe nội dung những lời nói như Nguyễn Chí Vịnh, thì chúng ta buộc phải nói rằng, đó là sự bệnh hoạn.
Bệnh hoạn, bởi những lời lẽ đó, chẳng có tác dụng gì ngoài sự lừa đảo và gây nên việc phủ nhận những giá trị của sự thật khách quan.
Và chính vì thế, những lời nói kia, chính là những suy nghĩ phong phú, nhưng đó là sự phong phú bệnh hoạn.
Ngày 29/4/2021
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Bài bình luận gần đây