Mỗi khi có sự cố chính trị hay sự cố an ninh quốc gia thì liền có một quả bom thông tin, hoặc là chân dài đi bán dâm ngàn đô hoặc là thầy chùa dâm loạn hoặc là một quan chức nào đó ngoại tình, một quan chức tham nhũng lộ mặt… nhằm nhấn chìm thông tin quan trọng hơn, có quan hệ đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Đây là kiểu dùng tệ nạn làm bình phong tệ nạn mà báo chí của đảng Cộng sản đã rất thành công trong nhiều năm nay. Và đây cũng là chìa khóa để trả lời câu hỏi vì sao nạn tham nhũng tràn lan, tham nhũng từ cửa quan cho đến của chùa, văn hóa xuống cấp trầm trọng… Và chế độ Cộng sản vẫn tồn tại.
Đây không phải là vấn đề ngày một ngày hai mà có, mà ít nhất (trong khuôn khổ thời internet toàn cầu) đã có sự chuẩn bị từ những năm 1990 của thế kỉ trước. Nếu những năm 1997, đảng Cộng sản không đi đến quyết định kết nối, hòa mạng internet với toàn cầu thì cơ hội tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam sẽ rất thấp vì Việt Nam không phải là Trung Quốc hay Bắc Hàn, Cu Ba. Bắc Hàn còn những biểu tượng độc tài, Cu Ba cũng vậy, Trung Quốc tuy chỉ là biểu tượng trong lăng nhưng bù vào đó, kinh tế của họ đã phát triển vượt bậc so với Việt Nam. Trường hợp Việt Nam là tệ hại nhất trong các nước Cộng sản vì nội lực kinh tế lúc đó rất kém, kênh xuất nhập khẩu gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, việc để kinh tế tiếp tục tuột hậu và cơ hội tương tác, mở mang của thế hệ trẻ với thế giới tiến bộ không có thì nguy cơ đất nước quay về thời đồ đá là có thật.
Kết nối internet với toàn cầu là một lựa chọn tình thế và là con dao hai lưỡi đối với chế độ. Vì không có cánh cửa sổ nào mở ra thế giới nhanh hơn internet, và cũng không có ngọn gió nào thổi bạt chủ nghĩa Cộng sản lạc hậu nhanh hơn internet. Thế nhưng cũng chính internet đã mở ra hàng triệu cơ hội cho hàng triệu trí thức và người lao động, mở ra hàng triệu cơ hội để thu hút đầu tư và hàng triệu cơ hội trên lĩnh vực xuất nhập khẩu… Có hàng triệu cơ hội thông qua internet mới có được và nó đã mang về một lượng tư bản khổng lồ cho Việt Nam. Lượng tư bản này giúp cho chế độ thêm vi thêm cánh, củng cố sức mạnh và cuối cùng, nó trở thành quái thú hút máu khổng lồ.
Cũng trên lộ trình phát triển này, đảng Cộng sản đã chơi đòn nước đôi, vừa bẻ lái chủ trương vừa thuận theo bản năng tự nhiên. Bẻ lái chủ trương nằm ở chỗ thay vì cứng nhắc thù hận thì họ chuyển sang ăn xin một cách khéo léo “kẻ thù”, từ chỗ ăn xin người anh em Liên Xô, Trung Quốc, Cộng sản Việt Nam nhanh chóng chuyển sang ăn xin toàn cầu, từ chỗ năn nỉ, khúm núm với Liên Xô, Trung Quốc, vuốt lưng Iraq sang chỗ ăn vạ quốc tế. Và từ chỗ không có gì để khoắn, hệ thống đảng đã nhanh chóng trở nên mập mạp bằng chia chác các khoản vay, viện trợ, ODA… Đây cũng là lúc hàng triệu thứ nấm độc trong hệ thống có đủ điều kiện khí hậu để sinh sôi, nảy nở. Và ngay từ đầu, nếu như đảng Cộng sản cứng rắn trong chống tham nhũng hoặc cứng rắn với những kẻ làm nội gián cho Trung Cộng thì chắc chắn chế độ cũng khó mà tồn tại đến ngày nay. Vì lẽ, nếu sạch tham nhũng thì mất hẳn động lực tham gia và bảo vệ đảng, chống ngoại xâm và nội gián thì cũng chẳng có chỗ chống lưng độc tài để tồn tại mà đi ăn mày quốc tế. Chính vì vậy, cách mà đảng chọn để hành động là nuôi tham nhũng, nuôi tội phạm và nuôi kẻ bán nước. Nuôi tham nhũng sẽ giúp cho độc tài trở nên quí giá, một khi tấm thẻ đảng giúp cho đảng viên nhanh chóng giàu có, chễm chệ trên ghế quyền lực và thỏa sức bóc lột, thỏa sức làm những việc vô luân thì đương nhiên, đảng viên họ phải xem đảng là bầu trời, chí ít cũng phải là bầu trời che chở, mưa móc trên cánh đồng màu mỡ lợi lộc của gia đình họ.
Và một khi tham nhũng, cái xấu phát triển đến đỉnh điểm, nó sẽ tự phân tầng thấp cao, tự phân tầng giá trị và bất kì tầng bậc nào cũng có thể làm lá chắn sống hoặc làm dê tế thần của chế độ. Những lá chắn sống, dê tế thần sẽ được dùng trong mọi tình huống, mọi lúc để bảo vệ hệ thống quyền lực tối cao là trung ương đảng. Nhưng nói chính xác hơn là để bảo vệ hệ thống đầu não, hệ thống hải đăng của những nhóm lợi ích. Một khi câu chuyện tham nhũng hay trò chơi quyền lực của một nhóm nào đó bị hạ thang điểm, làm bại lộ nhiều khuyết điểm (trong hệ thống khuyết điểm lớn) thì hiển nhiên, các nhóm còn lại sẽ thông qua hệ thống tối cao để đi đến triệt hạ nhóm đó. Nhóm quyền lực của Nguyễn Tấn Dũng bị tấn công kéo theo nhiều nhóm tay chân bộ hạ của ông ta bị triệt tiêu là một bằng chứng. Bên cạnh đó, những nhóm lợi ích muốn nâng cấp quá nhanh và có nguy cơ sẽ xô dạt nhóm khác cũng bị triệt tiêu không nương tay, trường hợp Nguyễn Bá Thanh, Trần Đại Quang là những ví dụ điển hình.
Nhưng, phướng thức hạ đối phương như thế nào và bảo vệ bí mật nhóm lợi ích còn lại ra sao? Ở đây, nguyên tắc lấy tệ nạn làm lá chắn tệ nạn thông qua truyền thông được sử dụng tối đa, bên cạnh đó, triệt tiêu đối phương và lấp mọi dấu vết cũng bằng truyền thông. Gần đây nhất là câu chuyện môi trường và bãi Tư Chính. Tưởng câu chuyện môi trường Việt Nam và bãi Tư Chính không liên quan gì nhau nhưng thực tế đó là mối liên hệ chặt chẽ và có chung một nguyên nhân mang tên Trung Quốc.
Môi trường Việt Nam xấu đi bởi Cộng sản Việt Nam đã mang toàn bộ rác công/nông nghiệp của Trung Quốc về đặt trên lãnh thổ quốc gia. Từ nhiệt điện cổ lỗ sỉ cho đến nhà máy luyện thép, khai thác quặng bauxite, rồi các mặt hàng điện tử, máy móc và thực phẩm Trung Quốc qua đường nhập khẩu… Đều là những thứ làm cho môi trường Việt Nam nhanh chóng kiệt quệ. Và nói về tệ nạn tham nhũng, vô văn hóa hay bán nước, làm tay sai cho giặc phương Bắc thì đầy rẫy ở các nhóm. Một khi sự cố môi trường bị báo giới quốc tế và mạng xã hội phanh phui, đặt vấn đề, đẩy đến cao trào thì ngay tức thì, cơ quan ngôn luận của đảng tung ra những quả bom thông tin về giới chân dài bán dâm hoặc làm điều gì đó phản “thuần phong mỹ tục”. Và cũng ngay tức thì, thông tin bị đánh lạc hướng. Khi sự vụ bãi Tư Chính phát triển đến cao trào, nguy cơ mất lãnh hải, lãnh thổ hiện ra trước mắt thì có ngay câu chuyện thầy chùa hoang dâm, tham lam và dư luận đá lệch sang chỗ tay thầy chùa này mạnh đến độ gần như người ta tạm quên bãi Tư Chính. Chỉ cần một thời gian “tạm quên” ngắn ngủi thì câu chuyện lịch sử đã có khoảng trống để biến thiên đến khó lường.
Thực ra, những câu chuyện “lá chắn” kia vốn dĩ đã nằm trong tầm ngắm từ rất lâu nhưng chưa có dịp dùng đến, nghĩa là nó chỉ tồn tại và được dùng khi cần che lấp một thứ gì đó trầm trọng hơn nó điể bảo vệ các nhóm còn hữu dụng. Nói cho cùng thì truyền thông Cộng sản đã thành công trong việc đánh lệch hướng dư luận.
Vì chủ trương lấy tệ nạn làm lá chắn tệ nạn vẫn còn là thứ chủ trương mang lại hiệu quả tích cực cho sự tồn tại của đảng Cộng sản nên chắc chắn một điều, mọi cái lò chống tham nhũng đốt lên không ngoài mục đích tiêu diệt nhóm lợi ích khác, tạo ra khoảng đất trống cho nhóm còn lại trồng cây quyền lực và thu hồi một khoản tư bản không nhỏ cho các nhóm còn lại. Và việc duy trì tham nhũng hay tệ nạn xã hội là một việc tối cần thiết để bảo vệ đảng. Việc bán nước hay làm tôi đòi cho thiên triều Cộng sản Trung Quốc chỉ chấm dứt khi Cộng sản Trung Quốc sụp đổ. Nên hiện tại, việc mất Tư Chính là chuyện khó tránh khỏi. Và để đảm bảo cho việc “mất” này thuận buồm xuôi gió, sẽ còn nhiều lá chắn tệ nạn khác thông qua việc đốt lò chống tham nhũng và phát động các cuộc thanh trừng trong nội bộ đảng xuất hiện trong thời gian sắp tới.
Có thể nói rằng, hiện tại, việc sụp đổ của Cộng sản Việt Nam nghe ra còn xa vời bởi nó phụ thuộc vào việc Cộng sản Trung Quốc có sụp đổ hay không. Nhưng việc tự giải tán để đối phó tình thế và một lần nữa cướp chính quyền theo lối tân hình thức là chuyện có thể xảy ra một sớm một chiều nào đó. Vấn đề còn lại, liệu người dân và các thành phần yêu dân chủ có đủ nội lực để chớp lấy thời cơ hay không và sau độc tài Cộng sản thì còn một loại độc tài nào khác xuất hiện hay không? Đó cũng là một câu hỏi gây đau đầu!
Bài bình luận gần đây