You are here

Upsidedownism hay nghệ thuật của những nghịch lý

Đối với Nguyễn Đại Giang, người sáng lập trường phái nghịch đảo, hội họa cũng là một hình thức tư duy.

Upsidedownism được sáng tạo, bởi ba yếu tố, như chính Đại Giang đã nói trong bài phỏng vấn mà tôi thực hiện đầu năm 2014: cuộc sống, tưởng tượng và tự do.

Dĩ nhiên, ba yếu tố đó siêu vượt thù hận. Mặc dù Đại Giang có đủ lý do để thù hận (bảy năm bị giam cầm trong nhà tù ở miền bắc xã hội chủ nghĩa, vượt biên trong đày ải, ba năm ngồi tù ở Hồng Kong), nhưng thù hận không có chỗ trong tranh của ông. Người ta không thể sáng tạo cùng với thù hận. Hận thù chính là cái nhà tù giam giữ con người trong quá khứ. Sáng tạo, về bản chất là yếu tố thuộc về tương lai. Người ta không thể thoát khỏi quá khứ để tiến tới tương lai nếu cái nhà tù thù hận vẫn còn trong lồng ngực.

Sẽ khó mà hiểu được upsidedownism nếu tách hội họa của Nguyễn Đại Giang ra khỏi cuộc đời của Nguyễn Đại Giang.

Một cách chủ quan, tôi cho rằng không có trường phái upsidedownism nếu Đại Giang yên phận làm một giảng viên đại học mỹ thuật ở Việt Nam, lúc đó ông sẽ như bao giảng viên đại học mỹ thuật hiện nay, hoặc thậm chí có thể làm « quan lớn » trong hội Mỹ thuật cũng nên, nhưng ông sẽ không thể sáng tạo một trường phái.

Sẽ không có upsidedownism, nếu không có những năm tháng Đại Giang phải ngồi tù, vượt biên và lưu vong. Và sẽ không có những năm tháng tù đày, không có vượt biên, không có lưu vong, nếu Đại Giang không có tình yêu đối với tự do, và nếu Đại Giang không phải là người tự do.

Nhà tù và đời lưu vong là cái giá mà nghệ sĩ phải trả cho tự do và nghệ thuật.

Nghịch lý làm người trong một xã hội toàn trị là như vậy : những người tự do nhất của xã hội chính là những người bị bỏ tù vì dám chống lại thân phận nô lệ.

Và nghịch lý làm nghệ thuật trong một xã hội toàn trị là như vậy : chính là một công nhân làm nồi đã sáng tạo ra trường phái hội họa mới chứ không phải là những quan chức hội họa nắm giữ các danh vị cao nhất mà chế độ ban cho.

Mọi thứ trong xã hội toàn trị đều bị đảo ngược hết, mọi giá trị đều bị đảo ngược. Những trí thức chân chính như Nguyễn Mạnh Tường phải vá xe đạp, phải đứt ruột bán từng cuốn sách để tồn tại qua ngày; và những đao phủ như Phan Trọng Thưởng, ngồi ở « ngôi cao » - Hội đồng lý luận phê bình trung ương, dùng sự thiếu hiểu biết và yếu kém khoa học của mình để trừng phạt những người dám đẩy nghiên cứu ra ngoài khuôn phép của đảng. Tất cả đều ở trong tình trạng bị đảo ngược.

Đại Giang đã suy tư về tất cả những nghịch lý mà ông trải qua bằng chính cuộc đời ông, những suy tư đó mang lại kết quả là tranh đảo ngược và siêu đảo ngược.

Dĩ nhiên, hội họa nghịch đảo không phải là sự phản ánh tình trạng đảo ngược của xã hội toàn trị. Nếu chỉ phản ánh thì chưa có nghệ thuật đích thực.

Hội họa nghịch đảo của Đại Giang là một thứ triết lý bằng hình ảnh về một phương thức của tồn tại. Nghịch đảo trở thành nghệ thuật bởi nó là một cách nhìn thế giới, một cách nhìn đời sống.

Trong cách nhìn đó, hẳn nhiên không có bóng dáng nghiệt ngã của xã hội toàn trị, mặc dù chính cách thức vận hành của xã hội toàn trị và số phận con người trong xã hội toàn trị là chất liệu nền tảng trên đó nghệ sĩ chưng cất, thăng hoa và kết tinh thành quan niệm nghệ thuật của mình. Con đường đi của nghệ thuật là như vậy, từ chất liệu trần trụi và tàn bạo của thực tế, qua các trạng thái trải nghiệm, tư duy và thăng hoa, khi được hiện hữu thành sáng tạo thì nó đã thanh lọc hết, tẩy rửa hết, chỉ còn đọng lại thành cái đẹp, tức là nghệ thuật. Và dĩ nhiên, thù hận, tuyệt vọng, đau đớn cũng được thanh lọc trong quá trình đó, quá trình hình thành nghệ thuật, để cuối cùng còn lại trong tác phẩm là những gì xứng đáng được gọi là nghệ thuật.

Một trường phái nghệ thuật đâu có đơn giản mà hình thành được, nó ra đời khi người nghệ sĩ dám chấp nhận một cuộc phiêu lưu vì tự do và nghệ thuật, một cuộc phiêu lưu có thể gây nguy hiểm cho cả cuộc sống và cho cả tính mạng của mình.

Trong khi HNVVN, như ta đang chứng kiến, biến thành chiến trường ở đó sặc mùi khí tài, mùi thuốc súng mùi đạn dược mùi gươm đao ; ở đó những văn nô vung bút như vung gậy để thị uy quyền lực và để phục tùng quyền lực, để đe dọa, để giết chóc; ở đó  người ta tụ tập tiệc tùng, kể công trạng, tâng bốc lẫn nhau và tự tâng bốc chính mình… ; thì những nghệ sĩ đích thực sáng tạo bằng chính nỗi bất hạnh của họ, bằng tình yêu và tự do.

Câu hỏi gây phiền muộn là : có bao nhiêu người nhìn thấy điều đó ?

Có bao nhiêu người trong xã hội chúng ta ủng hộ nghệ sĩ chân chính và tẩy chay đám văn nô và bút nô ? Bao nhiêu người ủng hộ khoa học chân chính và tẩy chay ngụy khoa học và phản khoa học ? Bao nhiêu người ủng hộ tự do và tẩy chay sự nô lệ ?

Paris, 10/7/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

 

Bài bình luận

Hien thuc dao nguoc: http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/hatinh-provi-face-hardship-07092015074651.html