You are here

Biến cố 1975 dưới mắt các Bloggers

Thanh Quang, RFA
Có lẽ một trong những mốc thời gian – đúng hơn là mốc lịch sử - mãi đậm nét trong tâm trí nhiều người dân Việt là Biến cố năm 1975.

Phi trường Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn hôm 30-4-1975.

 
 Trĩu nặng nỗi âu lo
Ngày 30-04-1975 khi Saigòn thất thủ về tay CS Hà Nội, khi các chiến xa và xe tăng của quân “Giải Phóng” húc đổ những cánh cổng sắt nặng nề của Dinh Độc Lập, khi người “thua trận” ở Miền Nam trĩu nặng nỗi âu lo, tủi hận, oán hờn, khi cảnh “bể dâu” ngập tràn Miền Nam Tự do gây nên cảnh xót xa niềm hưng phế.
Nhân còn vài ngày nữa là đến thời điểm lịch sử này, Blog Việt Thức phổ biến “Bài thơ cho Tháng Tư Đen” của  nhà thơ Ngô Minh Hằng, mở đầu rằng:

Năm tháng theo nhau rụng xuống đời
Tháng Tư lại đến, biển sầu khơi !
Tháng Tư này nữa là bao nhỉ
Mà vẫn xa quê, vẫn phận hời ???
 
Tóc đã phai xanh, tuổi đã chiều
Vì sầu tổ quốc, vẫn đăm chiêu
Phần thương dân tộc trong hờn tủi
Phần xót quê hương đỏ giáo điều …

Rồi nỗi “Buồn Tháng Tư” của tác giả Trúc Xanh trên blog Dân chủ-Nhân quyền cho VN cũng chất chứa “niềm đau muôn thuở”:
Tháng Tư nào nắng trưa hè vụt tắt.
Tháng Tư nào dài dặc một đêm đen.
Tháng Tư nào nghe máu ứa trong tim.
Tháng Tư nào thành niềm đau muôn thuở.
Tháng Ba gãy súng

Sài Gòn ngày 30-04-1975. AFP PHOTO.

Qua bài tựa đề “Tháng Ba gãy súng. Tháng Tư tan hàng” đăng trên blog Việt Thức, tác giả Huy Phương không rõ “liệu chúng ta còn nhớ gì không” khi Tháng Ba đã qua và tháng Tư đã đến?
 
Có còn nhớ “Những hàng dương trên bờ biển Thuận An và Tư Hiền đã xanh mướt qua mấy mùa mưa gió, rừng núi cao nguyên trên đường lộ 7B đã đâm lộc nẩy chồi bao bận”? và “Những ai đã trải qua thời gian tù đày khắc nghiệt còn nhớ gì những ngày lội suối băng rừng, thân còm, bụng lép. Những ai đã đến được bến bờ qua những ngày lênh đênh trên biển cả, còn nhớ gì những nỗi hãi hùng, đau đớn tủi nhục mà tiếng kêu gào oan khiên không đến được trời xanh”? Và rồi ngày 30 Tháng Tư lại đến, tác giả e rằng “cuộc chiến cũng như người chết đã bị lãng quên”!
Nhưng tác giả vẫn tin rằng những hình ảnh “ Tháng Ba Gãy Súng”, “Tháng Tư tan hàng” trong hỗn loạn, chết chóc đau thương và tủi nhục ấy khó mà nhạt nhòa trong ký ức của những người thua cuộc. Tác giả Huy Phương hồi tưởng thảm cảnh đã xảy ra:
“Tháng Ba Gãy Súng” làm cho chúng ta có một chút gì nhớ đến Cao Xuân Huy, người lính Thủy Quân Lục Chiến đã vứt súng trên biển Thuận An, trong đoàn quân lui binh hỗn loạn, không được yểm trợ phi pháo, trước mặt là biển cả muôn trùng, sau lưng là giặc đuổi cận kề, mà không hề có tàu thuyền nào vào ghé bến. Những người lính dũng cảm mới hôm qua đây, phút chốc đã trở thành những mục tiêu cho những du kích bắn sẻ và những tên tiền sát viên địch điều chỉnh pháo binh, điều mà một người lính TQLC khác là Tô Văn Cấp đã đau đớn đặt tên cho chốn lui quân, nơi tuyệt lộ này là “pháp trường cát”, nơi chiến trường phơi thây bao chiến sĩ của chúng ta.Tháng Ba gãy súng làm cho chúng ta nhớ lại đoạn đường xương máu kinh hoàng từ Phú Bổn về duyên hải trong những ngày bỏ cao nguyên, làm tan rã một quân đoàn. Một cuộc rút quân không kế hoạch, không có cấp chỉ huy, không có quân bạn yểm trợ, đem con bỏ chợ, hỗn loạn và chết chóc khốn cùng. Người lính lâu nay ở với xóm làng, rừng núi, khuya sớm đùm bọc nhau, ngày nay một người lính lên xe ra đi, năm người dân bồng bế dắt díu nhau chạy theo. Nỗi đau của người lính hôm nay là không bảo vệ được người dân, vì vận nước, ngay người lính có súng mà phải vứt súng, có đất mà phải bỏ đất.

Nỗi đau của người lính hôm nay là không bảo vệ được người dân, vì vận nước, ngay người lính có súng mà phải vứt súng, có đất mà phải bỏ đất.
Huy Phương

Tháng Tư tan hàng, người lính bị trói tay, người lính bị phản bội, người lính ở lại sau cùng để cho những chuyến tàu chở người ra đi, để cho những chuyến phi cơ rời phi đạo đi về một chân trời hy vọng tự do, bỏ lại quê hương tù đày. Bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra cho miền Nam sau ngày “tan hàng” hay “mất nước”, danh từ sử dụng tùy theo sự suy nghĩ, nỗi mất mát và tâm trạng của mỗi người.”

Khúc ruột ngàn dặm
Qua bài “Hoài niệm 30-4: Tìm mãi yêu thương” được phổ biến trên nhiều trang mạng nhật ký, thầy Nguyễn Thượng Long từ Hà Đông “nghĩ rằng đã là người Việt Nam, dù là người chiến thắng hay là kẻ chiến bại, dù ở đâu trên mặt đất này thì ai ai vào ngày tháng đó cũng thở phào và không ít thì nhiều đều có chung cảm hứng yêu thương nhau như vậy. Nhưng những gì đã diễn ra sau mốc lịch sử đó lại không hoàn toàn như vậy…”. Thầy Nguyễn Thượng Long cho biết:

Thuyền nhân Việt Nam vừa đến được Malaysia vào những năm cuối thập niên 70. AFP PHOTO.

“Thế hệ chúng tôi…sinh ra và lớn lên cùng với sự ra đời của nhà nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Độc lập Tự do Hạnh phúc”. Tuổi ấu thơ chúng tôi trôi đi cùng với những cuồng nộ của một thế thái nhân tình rất xa lạ với những phẩm chất truyền thống của một dân tộc bản chất là hiền hòa. Kí ức đầu đời của thế hệ chúng tôi chưa thể nhạt nhòa về những gì đã đến sau những phát triển quái gở của chủ thuyết “Đấu tranh giai cấp”, về con đường chuyên chính vô sản, về bạo lực cách mạng mà những người cộng sản đã du nhập vào đất nước chúng tôi. Vẫn còn nguyên đó những câu hỏi đầy ám ảnh:

 
Tại sao lại phải “Đào tận gốc, trốc tận rễ” đám Trí – Phú – Địa – Hào… rồi bây giờ lại gọi đó mới chính là nguyên khí của đất nước!

Tại sao lại phải cải tạo thực ra là đánh sập công thương nghiệp tư bản tư doanh tới 2 lần (Miền Bắc sau năm 1954 – Miền Nam sau 30/4/1975). Sau 1986 đến nay lại phải làm lại gần như từ đầu.

Tại sao sau ngày 30/4/1975, ngày con Lạc ở miền Bắc chiến thắng cháu Hồng ở miền Nam, người chiến thắng không thực lòng hòa hợp, hòa giải mà lại tạo ra những thương tổn không đáng có trong lòng những kẻ bại trận. Những ngày tháng tù đầy, cải tạo và phân biệt đối xử với quân nhân, viên chức chính quyền cũ và vợ con gia đình họ đến nay vẫn là những kí ức đầy hãi hùng. Vì những hãi hùng này mà ngày đó hàng triệu người con đất Việt phải liều thân bỏ xứ ra đi…”

Thưa quý vị, có lẽ 1 trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là lời kêu gọi của giới cầm quyền VN dành cho “khúc ruột ngàn dặm” hãy cùng xoá bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải dân tộc. Trước khi lâm nạn, Blogger Phan Kiến Quốc – tức GS Phạm Minh Hoàng – có nhận xét về những bài kêu gọi sự hòa hợp, xoá bỏ hận thù qua bài viết của ông tựa đề “Xoá bỏ hận thù: Tại sao không ?”. Blogger Phan Kiến Quốc nhận xét:

Ngay trong lúc đi tìm sự hòa hợp, chúng ta vẫn chỉ đi tìm từ phía “kẻ thắng”, nên khó mà tìm ra sự đồng thuận.
Blogger Phan Kiến Quốc  

“Chủ đề này đã nhiều lần được đưa lên báo, đã có nhiều cuộc hội thảo, đã có nhiều phát biểu nhưng hình như nó vẫn còn nguyên vẹn, nếu không báo chí và truyền thông chẳng có hàng loạt bài “bức xúc” như vậy. Nhưng sau khi đọc những bài viết này thì những trăn trở trong tôi chẳng những không bớt mà còn nổi sóng hơn. Cái thắc mắc trước tiên là các bài viết hầu như đều bắt đầu bằng điệp ngữ “Không có kẻ thắng người thua nhưng cả dân tộc Việt Nam thắng”, nhưng tất cả các bài viết đều xuất phát từ “kẻ thắng”, họa hoằn lắm thì cũng thấy ông Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Nguyễn Hữu Có, nhưng những nhân vật này từ lâu cũng chẳng còn ở phía “kẻ thua”. Điều đó có nghĩa rằng ngay trong lúc đi tìm sự hòa hợp, chúng ta vẫn chỉ đi tìm từ phía “kẻ thắng”, nên khó mà tìm ra sự đồng thuận.”

Qua bài tựa đề “36 năm đất nước thống nhất, một tội danh bị đánh tráo, nỗi buồn riêng và chung”, blogger Lê Diễn Đức lưu ý rằng “Dưới bàn tay cai trị của Đảng cộng sản Việt Nam, rõ ràng các khái niệm đã được đánh tráo trơ trẽn và nhanh chóng”, từ “phản động” thành “khúc ruột ngàn dặm”, rồi “phù phép biến hoá tội danh” cho tới hãy “quên quá khứ, hướng tới tương lai”. Blogger Lê Diễn Đức nhận thấy:
“Giờ đây, lực lượng đông đảo những người “trốn ở lại nước ngoài” mỗi năm gửi về nước nhiều tỷ đôla, mang tiền về nước đầu tư, Nhà nước ra Nghị quyết 36 gọi họ là bộ phận không thể tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, là “khúc ruột ngàn dặm”, có thể xênh xang “áo gấm về làng”:

Ngày đi, Đảng gọi Việt gian
Ngày về thì Đảng chuyển sang Việt kiều
Chưa đi: phản động trăm chiều
Đi rồi thành khúc ruột yêu ngàn trùng!”

Thanh Quang cảm ơn quý vị vừa theo dõi Mục Điểm Blog hôm nay, và mong gặp lại tất cả quý vị cũng vào tuần tới.
Source: http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReadingBlogs/bloggers-on-04-30-19...

Bài bình luận

The April 30th Generation For almost Vietnamese all over the world, inside Vietnam as well as overseas, the date of April 30th is an abnormal day, because this date has carved into their memories, it has had a deep psychological influence on happiness-sadness-anger-hostility-depression-revenge of Vietnamese who have been living in all their current circumstances. For me, Tristan Nguyen, on April 30th 1975 I was born on a warship of the US Navy Seventh Fleet at that time operating just offshore in the Vietnam East Sea; therefore, my father named me “Tristan” which means “Sadness”. Tristan Nguyen means Nguyễn Buồn, Tristan Nguyen means Nguyen Sadness. Nguyen Sadness or Nguyễn Buồn is very different from many young Vietnamese inside Vietnam who were born on April 30th 1975 and their parents named them Nguyen Vui meaning Nguyen Joyfulness, isn’t he? Why do the Vietnamese Communists or Việt Cộng keep saying that the date of April 30th is the national reunification date, but this date has been obviously indicating the Vietnamese suffering their segregation? Why do the Việt Cộng keep saying that the date of April 30th is the date of South Vietnam being liberated, but it is clear that in South Vietnam at that time the Southern Vietnamese did not need any liberation? After the military efforts of both sides, the Communists and the Nationalists, some typical ground battles such as in 1968 the Việt Cộng Tet 1968 Gerneral Offensive had attacked every southern provinces, the large scale military operations by the ARVN armed forces had pacified almost rural areas controlled by the Việt Cộng, and the Phoenix Campaign had destroyed almost Việt Cộng infrastructures, but the military measures could not resolve the Vietnamese problems; following the political efforts resulted by the Paris Peace Accords 1973 officially signed on January 27th1973 to end the armed conflicts and restore the stable and peaceful living situations in both South Vietnam and North Vietnam for all the Vietnamese people to implement their rights to People’s Self-Determination and People’s Freedom of Choice regarding the national political regime and national reunification through consultations and a free general election with the United Nations forces monitoring. The two sides-Communists and Freedom Fighters-consisting of the Northern Việt Cộng and the Southern Việt Cộng together with the Americans and the Vietnamese Nationalists-RVN had officially cosigned the Paris Peace Accords 1973, but only the US strictly complied with the agreements while the Northern Việt Cộng, the Southern Việt Cộng, and the Vietnamese Nationalists-RVN violated the agreements. The US and its allies had fought in Vietnam to defend the outpost of freedom and democracy of the free world in Southeast Asia. The US had helped build up the Republic of Vietnam and had consolidated its power of governmental military forces and politics, and its way of free democratic political activities, as well as a lifestyle of personal freedom, a level of people’s knowledge valued enough to let the southern Vietnamese be able to cope with the Việt Cộng and be wise enough to choose between Communism and Freedom. As its consequence of freedom should be, why could the Việt Cộng as well as a number of the Vietnamese Nationalists keep saying ambiguously that the US and its allies had lost the Vietnam War and had to run away? Until very late in the date of April 29th 1975 the officers and employees under the Defense Attaché Office of the US Embassy were still actively working in Saigon. When the RVN Prime Minister Vu Van Mau asked all the Americans still inside Vietnam to immediately leave southern Vietnam in order to let only the Vietnamese together resolve the Vietnamese problems. Honoring the Paris Peace Accords 1973 the US had respected for the Vietnam sovereignty of Vietnamese, the last Americans in the US Embassy had to move hastily out of Vietnam, but that was not a fleeing due to Việt Cộng’s military power. The US did not abandon the Republic of Vietnam an ally in Southeast Asia that the U.S. had sacrificed a lot of resources and manpower to defend it from Communist’s expansion. Prime Minister Mau's request enforcing all the Americans to leave South Vietnam at once was a very unexpected situation, because the US Embassy had reviewed and valued the RVN Government still retaining its governmental capacities strong enough to hold out until the next year 1976 budget, and having the 16 tons of 24K gold with a number of precious stones and thousands of billions VN dong preserved at the National Bank of Vietnam. Every plan for postwar reconstruction of Vietnam had to be canceled right after that. The US and its allies always upheld and protected Democracy and Freedom, as well as the People’s Rights to Self-Determination and People’s Freedom of Choice. After ordering all the Americans move out and completely closing the door for all the Americans, President Duong Van Minh and Prime Minister Vu Van Mau thought that with their stance of neutrality, peace, nonviolence, cooperation, reconciliation and ethnic concord, they could negotiate, reconcile, accommodate, and compromise with the Việt Cộng. In very harsh reality, they miscalculated and went down in the flat world of politics; especially, they were defeated miserably because they completely fooled by the Việt Cộng’s deception. The Việt Cộng armed forces that had had the advantage of the ARVN ranks disorder took over the territories of the Tactical Zone I and the Tactical Zone II being vacated under the military command errors; in fact, that was the "tactical evacuation" of President Nguyen Van Thieu. President Thieu’s military command errors had very strong impacts on psychological position of all the ARVN soldiers. After the Paris Peace Accords 1973 was officially cosigned, President Thieu declared a very extreme stance against the communists- "Four Nos" - (1) No accepting the communist political activities in South Vietnam, (2) No negotiating with the communists, (3) No coalition government with the Southern Việt Cộng, (4) No conceding any territories to the Northern Việt Cộng or the Provisional Revolutionary Government of Southern Việt Cộng. This strong reaction of President Thieu showed the whole world, especially the US Congress seeing clearly Thieu’s mistakes when he insisted on not giving up any land to the Việt Cộng, but he actually ordered the "tactical evacuation" to vacate the whole Central Highlands, the coastal regions of Central Vietnam and the Tactical Zone I and the Tactical Zone II of the RVN. President Thieu’s another mistake was his not having enough self-confidence in his political skill, he suppressed the nationalist dissidents who had their political opinions different from him, he put the communist hat on anyone’s head who dared express something against him, despite there were actually some genuine nationalists, and he feared that he would become a loser in the political struggle because he suspected some Vietnamese politicians who would betray the cause of nationalism to worship Marx-Lenin and infiltrated into the establishment of the National Council of National Reconciliation and Ethnic Concord to proceed the political solution. Here, citing the Paris Peace Accords 1973 as follows: Clause (b) Article 9, Chapter IV regulates, "The implementation of the South Vietnamese People’s rights to self-determination" as follows: (b) The South Vietnamese people shall decide themselves the political future of South Viet Nam through genuinely free and democratic general elections under international supervision. Clause (a) Article 12 Chapter IV indicates, “Immediately after the cease-fire, the two South Vietnamese parties shall hold consultations in a spirit of national reconciliation and concord, mutual respect, and mutual non- elimination to set up a National Council of National Reconciliation and Ethnic Concord consisting of three equal segments.” Article 15, Chapter V of the Paris Peace Accords clearly indicates: “The reunification of Viet Nam shall be carried out step by step through peaceful means on the basis of discussions and agreements between North and South Viet-Nam, without coercion or annexation by either party, and without foreign interference. The time for reunification will be agreed upon by the North and South Viet Nam.” Also, there was a serious political mistake similar to President Thieu’s when he refused to establish the National Council of National Reconciliation and Ethnic Concord. After the Việt Cộng completely liberated South Vietnam, or in other words the Việt Cộng forcefully extorted the RVN, they did not organize the True and Reconciliation Commission of Vietnam because the Việt Cộng reunified the Democratic Republic of Vietnam-(Northern Việt Cộng) with the RVN-(Vietnamese Nationalist) which had just been extorted by the communists disguised under the Provisional Revolutionary Government of South Vietnam (Southern Việt Cộng). One of the Việt Cộng’s cunning tricks was used several times that they have become very adept at "taking advantage of right time opportunity to extort the governmental power", and after completely extorting the governmental power then the Việt Cộng ignored deliberately from acknowledging the national reconciliation or ethnic concord, and they also strictly followed the maxim of the VN Communist Party leader Ho Chi Minh -"While being weak, must link with one another. Once being strong, eliminate everyone.” After becoming the master of entire Vietnam, the Vietnamese Communists-Viet Cong built up many re-education camps to imprison all levels of the ARVN officers, government officials, cadres, politicians, writers, artists, journalists, teachers, all the RVN bourgeois intellectuals, instead of establishing the True and Reconciliation Commission of Vietnam. The Vietnamese Communists-Việt Cộng are really the persons who scare the Truth. They scare the Truth like the Vampires scare sunlight. If all the two parties-Communists and Freedom Fighters consisting of four sides the United States, the RVN-(Vietnam Nationalists), the Democratic Republic of Vietnam-(Northern Việt Cộng), the Provisional Revolutionary Government-(Southern Việt Cộng) had strictly implemented the Paris Peace Accords 1973, had decently performed a political solution; obviously, the Việt Cộng could not have extorted the Republic of Vietnam, could not have won the trust and the heart of the southern Vietnamese people. When there were interactions between the Southern Việt Cộng coming in the towns from the lowland rural areas and the Northern Việt Cộng arriving at the southern cities, in addition to the great number of very poor ordinary northern Vietnamese who would pop their eyes amazingly coveting the sufficient lifestyle, prosperity and freedom of the southern Vietnamese. Then, what would the northern Vietnamese choose? The Communist’s poverty or the Freedom’s prosperity? President Nguyen Van Thieu had not enough or none of the political skills to confront with his political opponents who were truly the Vietnamese Communists disguised themselves as the nationalists living inline-inner cities; those Vietnamese politicians who positioned themselves as the leftist- communist tendency; those Vietnamese nationalist dissidents whose stance was non-communist. He had not enough political skills to reconcile and accommodate with those Vietnamese politicians in his government. He was also afraid of going down in the political world and his failure in the coalition government of three equal components, so he flatly refused to set up the National Council of National Reconciliation and Ethnic Concord. President Thieu imprisoned his opponents when they asked for his execution of the Paris Peace Accords 1973. Through the US Embassy in Saigon the US Congress certainly had somewhat comments about President Thieu when he had showed some wrong reactions to cope with the current military and political situations. Having the same fears, the Vietnamese Communists-Việt Cộng were so scared by the Truth, so they have not established the Truth and Reconciliation Commission of Vietnam after forcefully extorting the Republic of Vietnam, and carried out the national reunification by actual military measures. The Northern Việt Cộng also enforced the Southern Việt Cộng to quickly rush forward on the path of socialism in order to get both South VN and North VN with equal poverty. After the two parties, the People's Revolution Party of the Southern Việt Cộng and the Labor Party of the Northern Việt Cộng, merged into the Vietnamese Communist Party although they all had been communists, but within internal situation of the Vietnamese Communist Party there were not reconciliation and accommodation with each other. The Vietnam's political history shows that reconciliation and accommodation began when the Resistance Coalition Government was established. In November 1945, General Tiêu Văn who was authorized by General Commander-in-Chief Chiang Kai-shek to host a reconciliation conference at the Embassy of China including the Vietnamese National People’s Party, the Vietnamese Revolutionary League, the League for Independence of Vietnam Communist, and the Democrat Party to participate. All of them, the Vietnamese National People’s Party, the Vietnamese Revolutionary League, the League for Independence of Vietnam Communist, and the Democrat Party, agreed to establish the Resistance Coalition Government, and all the parties had to avoid any armed conflicts to resolve disagreed problems and had to terminate their propaganda activities attacking each other. However, the Resistance Coalition Government did not last long. In July 1946, the armed forces of the League for Independence of Vietnam Communists attacked the armed forces of the Vietnamese National People’s Party. In order to compete one another for an exclusive leadership, during two years in 1945, 1946 the Việt Minh or Việt Cộng eliminated the leaders of the nationalist parties and killed many party members of the Vietnamese National People’s Party (Việt Quốc) and the Nationalist Party of Great Vietnam (Đại Việt). The Việt Minh or Việt Cộng also killed all the Vietnamese Communist Party members who supported the Trotskyist Fourth International. In the western region of South Vietnam in 1947, the Việt Minh-Việt Cộng eliminated Huynh Phu So the leader of the Hoà Hảo Buddhism in a visit to meet Nguyen Binh the leader of Việt Minh or Việt Cộng in the western region in order to conciliate the disputes between the Việt Minh-Việt Cộng and the Hoa Hảo Buddhism. Reconciliation, ethnic concord and compromise with the Việt Minh-Việt Cộng failed because the Việt Minh-Việt Cộng just wanted to capture the exclusive leadership position of a sole party. This is a very valuable historical lesson that no one can forget it. But not because of this historical experience we become to be scared by the Việt Minh-Việt Cộng, a kind of the Vampires who must be afraid of the Truth. In South Vietnam under President Ngo Dinh Diem, reconciliation and accommodation, compromise between the government of President Ngo Dinh Diem and the nationalist parties had also failed because President Diem betrayed the leaders of the nationalist parties, who had supported and helped Mr. Diem in deposing the Emperor Bao Dai and leading Mr. Diem become the first president of RVN-South Vietnam. President Diem also did not implement the Geneva Accords 1954 and refused to negotiate with the Northern Việt Cộng in a political settlement to reunify the country through a general election. President Diem had an extreme anti-communist stance; he did not reconcile, accommodate, nor compromise with his political opponents of the Vietnamese nationalist parties; he had a view of Buddhist discrimination; and he applied a nepotism policy in his management of RVN -South Vietnam Government. Due to the illicit political ambitions and wrongful desires to enrich oneself by the Vietnamese people's blood during the Vietnam War, some Vietnamese politicians in both sides, the Vietnamese Communists and the Vietnamese Nationalists, all have adopted a tactic of political cunning trick, “While being weak, must link with one another. Once being strong, eliminate everyone." to get rid of all political rivals as well as their collaborators in order to seize the exclusive monopolized position, and dictatorially rule over the national government and through that job to take full advantage of corruption and illicit enrichment. Usually those who have a radical or extreme stance-extreme left or extreme right, the terrorist extremists, those who are still fraught with personal animosity, the exclusive dictators, in wherever they always want a prolonged conflict to carry out an evil revenge, to take full advantage capitalizing on profits, to hang on to their own positions in the government enjoying their privileged positions; and therefore, they do not accept the national reconciliation, accommodation, nor compromise. Because if there is national reconciliation, accommodation and compromise, they will not have any conflict in order to revenge upon someone, to take full advantage getting personal profits, no more the status of a sole party dictatorship, no longer enjoying the special personal rights with privileges through authoritarian. Regarding the national reconciliation, accommodation and compromise among the Vietnamese politicians who are very often dishonest and always have suspicions toward one another, who make concessions to no one because of thinking so superior of themselves due to self-love, being vainglorious, and being self-important; therefore, they have encountered many difficulties and the political obstacles have still been extending until today, while the national reconciliation, accommodation and compromise between the Vietnamese political parties are imperative in the interests of Vietnam, the happiness and prosperous life for all the Vietnamese people. If our parents, aunts, uncles have sincerely reconciled and have straightforwardly compromised with one another, I myself was not born on a US warship offshore of the Vietnam East Sea, I was not named Tristan Nguyen or Nguyễn Sadness or Nguyễn Buồn, and YOU, my brothers and sisters had not been given the names Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness or Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness depending on the particular circumstances of each brother’s parents and each sister’s parents in Vietnam. And when I traced back the meaning of my name, I also intended to comprehend the meanings of other names such as Trần Đại Thắng-Trần Great Victory, Luu Quốc Hận-Luu National Resentment, Nguyễn Phục Quốc-Nguyễn National Restoration, Lê Quang Phục-Lê Glorious Restoration, Mai Trọng Dân-Mai Respect People, and so on. Of course each name has its distinct meaning and it appears to express something by the parents who named their child, or by the person carrying that name had named himself. Anyhow, the names have also conveyed somewhat level of more or less political nature and ideology which the parents expected to transmit to their child. WE, Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness and Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness who have presently been living overseas as well as Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness and Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness who have currently been residing inside Vietnam, can reconcile with each other to resolve the problems regarding the conflicts of being sadness or being joyfulness, CAN’T WE?? Or just ignore Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness and let him keep his sadness because he has been sad since 1975. Regarding Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness who has been joyful since 1975 just keeps his endless uproarious parties and just let him inherit his family privileges retaining to be Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness from the powerful father-to-son hereditary ruler? In such holding a position by inheritance through hereditary ruler, the ideological conflicts certainly must occur inside Vietnam. The ideology of inherited communists will conflict with the ideology of people’s freedom of choice. Today, on the occasion of the date of April 30th2011, the 36th birthday of the young Vietnamese depending on his or her personal circumstances he or she was named Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness currently living inside Vietnam; as well as those who left their homeland according to each person’s particular circumstances she or he was named Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness or Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness presently residing abroad. For me, I was named Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness, on this occasion I would like to invite all brothers and sisters with the same names Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness altogether with me to organize the federation of April 30th1975 generation, in short referring as the Federation of April 30th Generation in order to exchange our experiences regarding our Joyfulness and/or our Sadness among ourselves. Whether YOU, my brothers or sisters, are Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness, YOU are living inside Vietnam or residing overseas, WE all have the same birth date as the April 30th. The April 30thGeneration cannot let the poison of "lòng hận thù ngút trời-feeling of enmity and hatred rise high up in the sky" and "Máu của Con Ma Cà Ròng-Blood of the Vampires" pollute and rot our minds and our hearts. YOU, my brothers and sisters Nguyen Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn Buồn-Nguyen Sadness, are living inside Vietnam or overseas, WE may not continue to have an attitude of apathy, indifference to the circumstances, the incidents those have been happening around us. In the case of YOU, my brothers and sisters, have had some disagreements because of some emotional conflicts, and/or some disputes about the benefits of living; my brothers and sisters, please open your hearts and honestly express your thought and your will; then let us sympathize the plight of each other and help each other overcome difficulties in a life being restricted. When WE are able to tell the truth and/or our true feelings, WE are able to free ourselves from the shackles that have chained our innermost feelings, and/or WE are able to break the barriers of a closed Vietnam society by ourselves. YOU, my brothers and sisters who belong to The April 30th Generation, don’t hesitate to speak up your impressions about your plight. WE always listen to each other. /. Dr. Tristan Nguyễn - San Francisco, 30/04/2011 Notes: (1) “Lòng hận thù ngút trời-feelings of enmity and hatred rise high up in the sky” is quoted from the song “Giải Phóng Miền Nam” of the Việt Cộng. (2) “Máu của Con Ma Cà Ròng-Blood of the Vampires” hints at the Việt Cộng’s blood. (3) Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness and Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness are only the symbolized names used to denote the entire young Vietnamese generation who have been present abroad around the globe or inside VN since the date of April 30th 1975. THẾ HỆ 30 THÁNG 4 Đối với hầu hết mọi nguời Việt Nam ở khắp noi, trong nuớc cung nhu ngoài nuớc, ngày 30 tháng 4 là một ngày không-bình-thuờng bởi vì ngày này đa hằn sâu vào trí nhớ, đa ảnh huởng sâu đậm vào tâm lý vui-buồn-giận-thù-uất-hận của nguời Việt Nam đang sống trong tất cả các hoàn cảnh hiện tại của họ. Riêng tôi, Tristan Nguyễn, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi đuợc sanh ra trên một chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đang ở ngoài khoi Biển Đông, vì vậy cha tôi đa đặt cho tôi cái tên Tristan có nghia là Buồn, Tristan Nguyễn có nghia là Nguyễn Buồn. Có phải Nguyễn Buồn rất khác với nhiều nguời Việt Nam ở trong nuớc đuợc sanh ra trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 và đuợc cha mẹ của họ đặt cho cái tên Nguyễn Vui hay không? Tại sao nguời Việt Cộng Sản hay Việt Cộng cứ nói hoài ngày 30 tháng 4 là ngày thống nhất đất nuớc nhung rõ ràng đó là ngày nguời dân Việt Nam phân ly? Tại sao Việt Cộng cứ nói hoài ngày 30 tháng 4 là ngày giải phóng miền nam VN nhung rõ ràng là miền nam VN lúc đó đa không cần đuợc ai giải phóng? Sau những nổ lực quân sự của cả hai bên Cộng Sản và Quốc Gia điển hình qua trận Việt Cộng Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968 vào tận các tỉnh thành miền nam, các cuộc hành quân đại qui mô của quân lực VNCH để bình định những vùng nông thôn do Việt Cộng kiểm soát, và Chiến Dịch Phuợng Hoàng tiêu diệt gần hết hạ tầng co sở Việt Cộng để giải quyết vấn đề Việt Nam nhung không thành công; tiếp theo là nổ lực chính trị kết quả của Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973 đuợc ký kết để chấm dứt những xung đột có võ trang và lập lại tình trạng sinh sống bình an ổn định ở cả hai miền nam bắc Việt Nam và để toàn thể nguời dân Việt Nam thực hiện Quyền Dân Tộc Tự Quyết và Quyền Tự Do Lựa Chọn chính thể và thống nhất đất nuớc qua những cuộc hiệp thuong và tổng tuyển cử tự do có lực luợng Liên Hiệp Quốc giám sát. Hai bên Cộng Sản và Tự Do gồm có Bắc Việt Cộng và Nam Việt Cộng cùng với Mỹ và Việt Quốc Gia-VNCH đồng ký kết Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973, nhung chỉ có Mỹ là nghiêm chỉnh thi hành hiệp định trong khi Bắc Việt Cộng, Nam Việt Cộng, và Việt Quốc Gia đều vi phạm hiệp định. Mỹ và các nuớc đồng minh tham chiến ở VN là để bảo vệ cái tiền đồn tự do dân chủ của thế giới tự do tại Đông Nam Á và đa tạo dựng một nuớc VNCH rồi củng cố sức mạnh quân sự, chính trị và một nếp sinh hoạt chính trị dân chủ, một lối sống tự do cá nhân, một trình độ dân trí đủ để cho nguời dân miền nam VN đủ sức để đuong đầu với Việt Cộng và đủ khôn ngoan để lựa chọn giữa Cộng Sản và Tự Do. Nhu vậy, tại sao Việt Cộng cung nhu một số nguời Việt Quốc Gia có thể nói một cách hàm hồ là Mỹ và đồng minh thua trận và bỏ chạy? Cho tới cuối ngày 29 tháng 4 năm 1975 các si quan và nhân viên trực thuộc phòng Tuỳ Viên Quốc Phòng của Đại Sứ Quán Mỹ vẫn còn tích cực làm việc tại Sài Gòn. Khi Thủ Tuớng VNCH Vu Văn Mẫu yêu cầu mọi nguời Mỹ phải tức khắc rời khỏi miền nam VN để nguời Việt Nam tự giải quyết vấn đề Việt Nam với nhau. Vì tôn trọng Chủ Quyền Việt Nam của nguời Việt Nam những nguời Mỹ cuối cùng ở Đại Sứ Quán Mỹ phải ra đi vội vã, nhung việc đó không phải là bỏ chạy truớc sức mạnh của Việt Cộng. Mỹ không bỏ roi VNCH một nuớc đồng minh ở Đông Nam Á mà chính Mỹ đa hy sinh rất nhiều tài nguyên, nhân lực để bảo vệ. Lời yêu cầu của Thủ Tuớng Mẫu bắt buộc mọi nguời Mỹ phải tức khắc rời khỏi miền nam VN là một tình huống vô cùng bất ngờ, bởi vì Đại Sứ Quán Mỹ đa đánh giá nuớc VNCH còn đủ sức mạnh để cầm cự cho tới năm ngân sách 1976, và 16 tấn vàng 24K cùng với một số luợng đá quí và hàng ngàn tỉ tiền đồng VN còn luu giữ tại Ngân Hàng Quốc Gia VN. Mọi kế hoạch hậu chiến, tái thiết Việt Nam đều bị huỷ bỏ liền sau đó. Mỹ và các nuớc đồng minh luôn luôn đề cao, bảo vệ Dân Chủ và Tự Do, cung nhu Quyền Dân Tộc Tự Quyết và Quyền Tự Do Lựa Chọn của nguời dân. Sau khi ra lệnh đuổi nguời Mỹ và hoàn toàn đóng lại mọi cánh cửa đối với nguời Mỹ, TT Duong Văn Minh và Thủ Tuớng Vu Văn Mẫu nghi rằng với lập truờng trung lập, hoà bình, bất bạo động, hợp tác, hoà giải và hoà hợp dân tộc của họ thì họ có thể thuong luợng, điều đình, thoả hiệp với Việt Cộng. Thực tế rất phu phàng là họ đã thất thế chính trị, thất bại thê thảm vì họ hoàn toàn bị Việt Cộng lừa gạt. Việt Cộng đa lợi dụng thời co đối phuong đang rối loạn hàng ngu quân đội VNCH, việc bỏ trống lãnh thổ Vùng I và Vùng II theo quân lệnh sai lầm “di tản chiến thuật” của TT Nguyễn Văn Thiệu đa làm dao động mạnh tâm lý của hầu hết nguời lính cộng hoà. Sau khi Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973 đuợc ký kết thì TT Thiệu tuyên bố một lập truờng chống cộng rất cực đoan “Bốn Không”- không chấp nhận các hoạt động chính trị cộng sản ở miền nam VN, không thuong luợng với cộng sản, không có chính phủ liên hiệp với Nam Việt Cộng, không nhuợng đất cho Bắc Việt Cộng hay Chính Phủ CMLT của Nam Việt Cộng. Điều này đã cho cả thế giới, nhất là Quốc Hội Mỹ thấy rõ TT Thiệu sai lầm khi chủ truong không nhuợng đất cho cộng sản nhung lại “di tản chiến thuật” bỏ trống cả Cao Nguyên Trung Phần, duyên hải miền trung thuộc Vùng I và Vùng II Chiến Thuật của VNCH. Một sai lầm khác của TT Thiệu là ông không đủ tự tin vào bản lãnh chính trị của ông, ông trấn áp những nguời quốc gia bất đồng chính kiến với ông, ông chụp mu cộng sản lên đầu của bất cứ ai chống lại ông cho dù có một số nguời quốc gia chân chính, và ông lo sợ sẽ bị thất thế chính trị vì nghi ngờ sẽ có những kẻ phản bội chính nghia quốc gia tôn thờ Marx-Lenin len lỏi vào tổ chức khi thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc để bắt đầu tiến hành giải pháp chính trị. Ở đây trích dẫn Hiệp Định Ba Lê 1973 nhu sau: khoản (b) điều 9 Chuong IV quy định “Việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam” nhu sau: “ b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam tự quyết định tuong lai chính trị của Miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.” Khoản (a) điều 11 thì ghi “Ngay sau khi ngung bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thuong trên tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính lẫn nhau để thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau...”. Điều 15 của chuong V Hiệp Ðịnh Paris quy định rất rõ ràng: “Việc thống nhất nuớc Việt Nam sẽ đuợc thực hiện từng buớc bằng phuong pháp hoà bình trên co sở bàn bạc và thoả thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cuỡng ép hoặc thôn tính bên nào...Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam thoả thuận...” Cung có một sai lầm chính trị nghiêm trọng tuong tự nhu của TT Thiệu khi ông từ chối không thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc là Việt Cộng sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam VN, hay nói cách khác là cuỡng chiếm nuớc VNCH, đã không thành lập một Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nuớc Việt Nam bởi vì Việt Cộng đa thống nhất VNDCCH-(Bắc Việt Cộng) với VNCH-(Việt Quốc Gia) vừa bị cộng sản cuỡng chiếm duới hình thức CPCMLTCHMNVN-(Nam Việt Cộng). Một trong số những thủ đoạn tinh ranh của nguời CSVN đã đuợc sử dụng nhiều lần nên trở nên rất thành thạo lão luyện là “lợi dụng nắm thời co đánh cuớp chính quyền” và sau khi đã cuớp đuợc chính quyền rồi thì không cần gì tới hoà giải hay hoà hợp dân tộc nữa, và cung là để làm đúng theo câu châm ngôn của thủ lãnh đảng CSVN- Hồ Chí Minh “Yếu thì liên hiệp. Mạnh thì triệt tiêu”, Việt Cộng sau khi đa làm chủ cả nuớc Việt Nam thì xây dựng lên những trại tù để cải tạo các cấp quân nhân, cán bộ, nhân viên chính phủ, chính trị gia, văn nghệ si, ký giả, nhà giáo, hầu hết trí thức tu sản của VNCH, thay vì Việt Cộng thành lập một Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nuớc Việt Nam. Chính những nguời CSVN-Việt Cộng là những nguời sợ hãi Sự Thật. Họ sợ hãi Sự Thật nhu Con Ma Cà Ròng sợ hãi ánh sáng mặt trời. Nếu tất cả hai bên Cộng Sản và Tự Do, bốn phía là Mỹ, VNCH-(Việt Quốc Gia), VNDCCH-(Bắc Việt Cộng), CPCMLTCHMNVN-(Nam Việt Cộng) đều nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Định Ba Lê 1973, thực hiện đang hoàng giải pháp chính trị thì rõ ràng Việt Cộng không thể chiếm đuợc nuớc VNCH, không thể chiếm đuợc lòng tin yêu của nguời dân miền nam VN. Khi có sự giao luu giữa Việt Cộng ở trong bung biền miền nam ra ngoài tỉnh thành và Việt Cộng ở miền bắc vô miền nam, không kể một khối luợng rất nhiều thuờng dân nghèo khổ của miền bắc sẽ trố mắt thèm muốn lối sống sung túc ấm no và tự do của nguời dân miền nam. Nguời thuờng dân miền bắc lúc đó lựa chọn cái gì? Cộng Sản nghèo khổ hay Tự Do ấm no?? TT Nguyễn Văn Thiệu đa không đủ hoặc không có bản lãnh chính trị để chống chọi với những đối thủ chính trị đối lập với ông là những nguời Việt Cộng nguỵ trang ở nội tuyến nội thành, những nguời làm chính trị khuynh tả thân cộng, những nguời quốc gia bất đồng chính kiến không cộng sản, ông không có đủ bản lãnh để hoà giải và thoả hiệp với những nguời này trong chính phủ của ông; ông Thiệu cung đã sợ hãi sự thất thế và thất bại của ông trong một chính phủ liên hiệp ba thành phần cho nên ông đa thẳng thừng từ chối thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc. TT Thiệu đa bỏ tù những nguời đối lập khi họ đòi hỏi ông thực thi Hiệp Định Ba Lê. Quốc Hội Mỹ thông qua Đại Sứ Quán Mỹ đa có nhận xét gì về ông Thiệu khi ông đa có những hành động đối phó sai lầm nhu vậy. Có cùng một nỗi sợ hãi giống nhau, Việt Cộng đa sợ hãi Sự Thật nên đa không thành lập Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nuớc Việt Nam sau khi đã cuỡng chiếm nuớc VNCH, thống nhất đất nuớc bằng biện pháp quân sự. Bắc Việt Cộng cung đã cuỡng ép Nam Việt Cộng gấp rút chạy đua trên con đuờng tiến lên xã hội chủ nghia để cả hai miền Nam Bắc cùng nghèo đói bằng nhau. Sau khi đã thống nhất hai đảng Nhân Dân Cách Mạng của Nam Việt Cộng và đảng Lao Động của Bắc Việt Cộng thành một đảng Việt Cộng-CSVN mặc dù tất cả đều đa là cộng sản, nhung trong nội bộ Việt Cộng cung không có sự hoà giải với nhau. Lịch sử chính trị Việt Nam cho thấy sự hoà giải và thoả hiệp đã bắt đầu khi thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Tháng 11 năm 1945, Tướng Tiêu Văn duới quyền của Thống Tuớng Tuởng Giới Thạch đứng ra tổ chức một cuộc hội nghị hòa giải tại Đại Sứ Quán Trung Hoa gồm có Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Minh CS, và đảng Dân Chủ tham dự. Tất cả các đảng Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh, và Dân Chủ đều thỏa thuận thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến, các bên tránh xung đột võ trang để giải quyết những vấn đề bất đồng và chấm dứt việc tuyên truyền đả kích nhau. Tuy nhiên, Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến này không tồn tại lâu. Tháng 7 năm 1946, Việt Minh CS đã tấn công lực lượng của Việt Quốc. Để tranh giành quyền lãnh đạo độc tôn, trong hai năm 1945, 1946 Việt Minh đa triệt tiêu những thủ lãnh của các đảng phái quốc gia, giết chết rất nhiều đảng viên của Việt Quốc và Đại Việt Quốc Dân Đảng. Việt Minh còn giết chết cả những đảng viên Việt CS Đệ Tứ Quốc Tế. Vào năm 1947 ở miền tây nam bộ VN, CS Việt Minh đa triệt tiêu Huỳnh Phú Sổ một thủ lãnh của Phật Giáo Hoà Hảo trong chuyến đi gặp Nguyễn Bình một thủ lãnh của CS Việt Minh ở miền tây để hoà giải những tranh chấp giữa PGHH và CS Việt Minh. Sự hoà giải, hoà hợp dân tộc và thoả hiệp với CS Việt Minh đa thất bại vì CS Việt Minh chỉ muốn chiếm giữ vị trí lãnh đạo độc đảng độc tôn. Đây là một bài học lịch sử rất giá trị mà không ai có thể quên. Nhung không phải vì thế mà sợ hãi Việt Cộng, một loài Ma Cà Ròng sợ hãi Sự Thật. Ở miền nam VN duới thời TT Ngô Đình Diệm, sự hoà giải và thoả hiệp giữa chính phủ Ngô Đinh Diệm và các đảng phái quốc gia cung đa thất bại. TT Diệm đa phản bội những thủ lãnh của các đảng phái quốc gia, những nguời đã ủng hộ và giúp ông Diệm trong việc truất phế Bảo Đại đua đến việc ông Diệm trở thành tổng thống đầu tiên của nuớc VNCH. TT Diệm cung đã không thi hành Hiệp Định Geneva 1954 và từ chối hiệp thuong với Bắc Việt Cộng trong một giải pháp chính trị để thống nhất đất nuớc qua cuộc tổng tuyển cử. TT Diệm có lập truờng chống cộng cực đoan, không hoà giải và thoả hiệp với các đối thủ chính trị thuộc các đảng phái quốc gia, có óc kỳ thị Phật Giáo, và áp dụng lối gia đình trị vào việc quản lý nuớc VNCH. Do những tham vọng chính trị bất hảo và ý muốn làm giàu bằng xuong máu của nhân dân Việt Nam nên một số chính trị gia Việt Nam ở cả hai bên, Cộng Sản và Quốc Gia, đều đã áp dụng thủ đoạn chính trị độc ác gian manh “yếu thì liên hiệp, mạnh thì triệt tiêu” để diệt trừ hết những đối thủ chính trị cung nhu những nguời hợp tác hầu chiếm trọn địa vị độc tôn, độc quyền, và độc tài cai quản guồng máy quốc gia và qua công việc đó để tham nhung, làm giàu bất chính. Thông thuờng là những nguời có lập truờng cực đoan-cực tả hay cực hữu, những kẻ quá khích khủng bố, những nguời còn mang nặng thù oán cá nhân, những tên độc tôn-độc tài, ở bất cứ noi nào họ cung muốn kéo dài sự tranh chấp để trả thù báo oán, để lợi dụng trục lợi, để tham quyền cố vị huởng đặc quyền đặc lợi; vì thế mà không chấp nhận sự hoà giải và thoả hiệp. Bởi vì có sự hoà giải và thoả hiệp thì họ sẽ không còn tranh chấp để trả thù trả oán, để trục lợi riêng tu, không còn địa vị độc tôn độc đảng độc tài, không còn đuợc huởng đặc quyền đặc lợi nữa. Sự hoà giải, hoà hợp dân tộc và thoả hiệp giữa những nguời Việt Nam làm chính trị với nhau, những nhà chính trị Việt Nam thuờng thuờng nghi kỵ lẫn nhau, không chân thật, không ai chịu nhuờng nhịn ai vì có quá nhiều tự ái, tự cao, tự đại, và tự phụ; vì vậy họ đa gặp phải nhiều khó khăn và còn trở ngại kéo dài cho tới nay trong khi hon lúc nào hết sự hoà giải, hoà hợp dân tộc và thoả hiệp giữa những đảng phái chính trị của nguời Việt Nam là khẩn thiết vì lợi ích của đất nuớc Việt Nam, vì đời sống ấm no hạnh phúc của toàn thể nguời dân Việt Nam? Nếu cha mẹ, cô dì, chú bác của chúng ta đa thành thật hoà giải và ngay thẳng thoả hiệp đuợc với nhau thì bản thân của tôi đa không đuợc sanh ra trên một chiến hạm của Mỹ ở ngoài khoi Biển Đông, tôi đã không có cái tên Tristan Nguyễn hay là Nguyễn Buồn, và các anh chị cung đã không đuợc đặt cho cái tên là Nguyễn Vui hay Nguyễn Buồn tuỳ theo mỗi hoàn cảnh riêng của cha mẹ của các anh chị ở Việt Nam. Và khi tôi truy tầm ý nghia cái tên của tôi, tôi lại có ý muốn tìm hiểu những cái tên khác nhu là Trần Đại Thắng, Luu Quốc Hận, Nguyễn Phục Quốc, Lê Quang Phục, Mai Trọng Dân, .v.v. Di nhiên mỗi cái tên đền có ý nghia riêng biệt của nó và muốn biểu lộ một điều gì đó mà nguời cha hay nguời mẹ đã đặt tên cho con mình, hoặc là chính nguời mang cái tên đó đã tự đặt tên cho mình. Dù nhu thế nào thì cái tên cung mang ít nhiều tính chất chính trị và ý thức hệ mà nguời cha hay nguời mẹ muốn truyền đạt lại cho con. Nguyễn Buồn và Nguyễn Vui đang ở hải ngoại cung nhu Nguyễn Vui và Nguyễn Buồn hiện ở trong nuớc Việt Nam có thể hoà giải với nhau để giải quyết những vấn-đề-xung-khắc-vì-Vui-vì-Buồn-với-nhau hay không? Hay là Nguyễn Buồn thì cứ mặc kệ cho Nguyễn buồn. Còn Nguyễn Vui vì đa đuợc vui thì cứ tiếp tục cuộc vui và cứ thừa huởng đặc quyền đặc lợi di truyền để cứ là Nguyễn Vui cha truyền con nối? Trong những tình cảnh di truyền nhu vậy thì những xung đột ý thức hệ chắc chắn còn xảy ra ở trong nuớc Việt Nam. Ý thức hệ di truyền cộng sản sẽ xung đột với ý thức hệ tự do lựa chọn. Hôm nay nhân ngày 30 tháng 4 năm 2011, sinh nhật thứ 36 của những nguời Việt Nam tuỳ theo từng hoàn cảnh cá nhân mà có tên Nguyễn Vui hoặc Nguyễn Buồn hiện ở trong nuớc; cung nhu những nguời Việt Nam rời bỏ quê huong tuỳ theo hoàn cảnh của từng nguời mà mang tên Nguyễn Buồn hay Nguyễn Vui đang cu ngụ ở nuớc ngoài. Riêng tôi mang tên Nguyễn Buồn, muốn nhân dịp này mời gọi tất cả những anh chị có cùng tên Nguyễn Buồn hay Nguyễn Vui hãy cùng tôi thành lập một liên hội thế hệ ngày 30 tháng 4 năm 1975, gọi tắt là Liên Hội Thế Hệ 30 Tháng 4, để trao đổi Vui-Buồn với nhau. Cho dù anh chị là Nguyễn Vui hay là Nguyễn Buồn, anh chị đang ở trong nuớc hay ở hải ngoại, chúng ta đều có chung một ngày sanh là 30 tháng 4. Thế Hệ 30 Tháng 4 không thể để cho những chất độc của “lòng hận thù ngút trời” và “máu của Con Ma Cà Ròng” làm ô nhiễm và ung thối trí óc và trái tim của chúng ta. Các anh chị Nguyễn Vui hay Nguyễn Buồn đang ở trong nuớc hay ở hải ngoại, chúng ta không thể tiếp tục có thái độ lãnh đạm, vô cảm đối với các hoàn cảnh, các sự cố đa đang xảy ra xung quanh chúng ta. Truờng hợp các anh chị đã có xích mích với nhau vì một vài xung khắc tình cảm, một vài tranh chấp quyền lợi trong cuộc sống thì xin các anh chị vui lòng cởi mở, bày tỏ trung thực suy nghi và ý muốn của mình, sau đó hãy cảm thông hoàn cảnh của nhau và giúp nhau vuợt qua những khó khăn trong cuộc sống bị gò bó. Khi chúng ta nói lên đuợc sự thật hoặc trung thực nỗi lòng của mình, chúng ta tự giải phóng đuợc những gông cùm xiềng xích nội tâm hoặc tự phá vỡ đuợc những rào cản của xã hội Việt Nam khép kín. Các anh chị thuộc Thế Hệ 30 tháng 4 hãy mạnh dạn nói lên cảm tuởng gì về thân phận của mình. Chúng ta luôn luôn lắng nghe lẫn nhau./. Dr. Tristan Nguyễn nguyentristan77@yahoo.com San Francisco, 30/04/2011 Chú thích thêm: “lòng hận thù ngút trời” đuợc trích từ bài hát Giải Phóng Miền Nam của VC. “Con Ma Cà Ròng” là đảng viên VC. Những cái tên Nguyễn Buồn hay Nguyễn Vui chỉ là tuợng trung cho cả một thế hệ thanh niên nam nữ nguời Việt Nam hiện ở hải ngoại hay đang cu trú trong nuớc VN đuợc sanh ra sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975. http://vietvungvinh.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2331:the-he-30-thang-tu&catid=47:dien-dan&Itemid=83

Ta đi bằng đường biển Ta về bằng đường bay Có kẻ nói chua cay Bảo ta :"đồ phản quốc!" Nay nhà Nước "sáng suốt" Yêu Nước chính là ta Vì đô la đầy túi.