Tôi xa quê đã lâu, lâu đến nỗi không còn có thể nói hay đọc được tiếng mẹ đẻ một cách lưu loát và trôi chẩy nữa. Trên đường lưu lạc, có hôm, tôi lỡ bước đến Ayutthaya – nơi được vua U Thong chọn làm kinh đô của Xiêm La, từ thế kỷ XIV.
Nhìn thành quách, đền đài, phế tích điêu tàn giữa ánh nắng chiều mà không khỏi bùi ngùi, và chợt nhớ đến bài thơ (“Thăng Long Hoài Cổ”) của Bà Huyện Thanh Quan:
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương …
Vì vốn liếng biết tiếng Việt nghèo nàn (và vì cách dụng từ có khuynh hướng hàn lâm của tác giả) nên tôi không dám chắc là đã hiểu hết được cái tâm cảm áo não của bà, sau một cuộc bể dâu. May mắn là ngay bên dưới bài thơ thượng dẫn còn có thêm vài câu chú thích, tuy ngắn gọn nhưng khá tường tận:
“Thăng Long là kinh đô nước ta từ đời nhà Lý đến đời nhà Lê, đến đời Minh Mệnh nhà Nguyễn thì đổi ra tỉnh Hà Nội. Đi qua cố đô, Bà huyện Thanh Quan, đại biểu cho giai cấp sĩ phu Bắc Hà, bâng khuâng trước sự di đô đổi triều, đau lòng trước sự tang thương.”
Thì ra là thế!
Tôi vốn không sính chuyện thơ văn (và cũng chả có tinh thần nghinh tân hay hoài cựu gì sất cả) nên hoàn toàn không cảm thấy “bâng khuâng” chi hết, “trước sự di đô đổi triều tang thương” xẩy ra trong thời đại của chính mình. Điều may mắn là dân Việt không chỉ toàn cái thứ thất phu và vô cảm như tôi nên mọi diễn biến thời cuộc, cùng tâm tình của thế nhân, đều đã được giới “sỹ phu Bắc Hà” ghi nhận:
Cuộc hý trường kế tiếp, xẩy ra 21 năm sau (năm 1975) cũng thê lương và thảm thương không kém: Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý/ Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do! Tuy đã mất tự do và công lý nhưng nhiều người cầm bút vẫn còn giữ được lương tâm, và đã khẳng khái nói lên mọi cảm nghĩ chân thật của mình, dù thuộc bên thắng cuộc:
Nó khác ra sao?
Ông Châu Hiển Lý (bộ đội tập kết) cho biết: “Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. ‘Tính hơn hẳn’ của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”
Với thời gian, cùng với sự “tồi dở” và “thối nát về mọi mặt” mỗi lúc được “phơi bầy rõ rệt” hơn, dân Việt đều trở nên hoài cổ ít nhiều. “Bao giờ trở lại ngày xưa?” (hay “Ngày xưa ơi biết bao giờ trở lại?”) có lẽ là lời than thở đầu môi, sau mỗi cuộc hý trường ở đất nước này:
-Nguyễn Đình Toàn (1936 – ) : Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên/ mất từng con phố đổi tên đường/khi hẹn nhau ta lạc lối tìm/ ôi tình buồn như đã sống thêm (Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên).
-Hoàng Anh Tuấn (1932 – 2006) : Mưa hoàng hôn, năm cửa ô sầu hắt hiu trong ngục tù/ Tủi thân nhớ bao ngàу qua/ Mưa ngùi thương nhòa trên giòng sông Hồng Hà/ Ôi còn đâu vàng son mùa thơ hiền hòa/ Đau lòng Tháp Rùa, Thê Húc bơ vơ, Thành Đô xác xơ! (Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội).
-Vũ Thành (1926 – 1987) : Rồi đây dù lạc ngàn nơi / Ta hướng về chốn xa vời/ Tìm mộng xưa lãng quên tháng ngày tàn phai/ Nghẹn ngào thương nhớ em ... Hà Nội ơi! (Giấc Mơ Hồi Hương).
Tuy kẻ mất người còn nhưng Nguyễn Đình Toàn, Hoàng Anh Tuấn, Vũ Thành … đều thuộc về một thế hệ đã qua. Họ có “dĩ vãng vàng son” để mà hoài cổ, và đó là chuyện thường tình. Điều bất thường là lớp trẻ bây giờ cũng thế, cũng có khuynh hướng … nhìn lui!
Ngày 4 tháng 10 năm vừa qua, nhà báo Lê Anh Hùng đã ghi lại một bức ảnh của chính ông, trong bộ cánh rất chỉnh tề và lịch sự, cùng với câu hỏi: “Bao giờ cho đến ngày xưa?”
Ngày xưa nào?
Lê Anh Hùng sinh năm 1973. Ông chào đời chưa bao lâu thì “cả nước đã quy về một mối, một mối hận thù, một mối đau thương”! Tuổi thơ, cũng như tuổi trẻ của ông (e ) đều không êm đềm hay tươi vui lắm. Vậy mà ông vẫn hoài cảm (hay hoài cổ) thì nghĩ cũng hơi kỳ. Cuộc sống (xem chừng) mỗi lúc một tệ hại hơn với tất cả mọi người dân Việt, bất kể tuổi tác hay thành phần – trừ đám lãnh đạo ở đất nước này:
Sự tự tín, lạc quan và tin tưởng (hay hoang tưởng) của họ không khỏi khiến tôi nhớ những câu than trách của nhà báo Nguyễn Thông : “Đám cai trị xứ này cũng không hẳn là mù mắt, nhưng sự mù đầu mù óc, mù tư duy, suy nghĩ thì quá rõ. Như các cụ xưa bảo, đường quang chẳng đi lại đâm quàng bụi rậm. Quờ quạng cây gậy lý luận khua khoắng dò đường, chỉ đâm vào ngõ cụt.”
Sau cả nước “đâm quàng vào bụi rậm” rồi toàn dân lại “đâm vào ngõ cụt” thì hỏi ai mà không hoài cổ?
Bài bình luận gần đây