Đi nghe Hương Lan và Tuấn Vũ hát thử một đêm, giữa lòng Hà Nội, cũng tựa như đi ăn một bữa phở chui vào thời bao cấp vậy. Dù “nhạc sến” không “chất lượng” gì cho lắm nó vẫn có thể khiến cho thiên hạ bùi ngùi, xuýt xoa hay hít hà chỉ vì họ đã (lỡ) phải ăn quá nhiều những tô phở quốc doanh – không người lái – thế thôi!
tnt
Thưở sinh thời – khi vui miệng – có lần soạn giả Nguyễn Phương đã kể lại lúc đưa đám cô Năm Phỉ, và chuyện ông Chín Trích đập vỡ cây đàn:
“Ngày cô Năm Phỉ mất, người đến viếng tang nghe nhạc sĩ Chín Trích đàn ròng rã mấy ngày liên tiếp bên quan tài… Ông vừa đờn vừa khóc. Đến lúc động quan, trước khi đạo tỳ đến làm lễ di quan, nhạc sĩ Chín Trích đến lậy lần chót, ông khóc lớn:’ Cô Năm đã mất rồi, từ nay Chín Trích sẽ không còn đờn cho ai ca nữa…’ Nói xong ông đập vỡ cây đờn trước quan tài người quá cố.”
“Việc xảy quá đột ngột và trong hoàn cảnh bi thương của kẻ còn đang khóc thương người mất, mọi người im lặng chia sẻ nỗi đau của gia đình người quá cố và của nhạc sĩ Chín Trích. Khi hạ huyệt thì người nhà của cô Năm Phỉ chôn luôn cây đàn gãy của nhạc sĩ Chín Trích xuống mộ phần của cô Năm Phỉ.” (Thời Báo USA, số 321, 18/02/2011, trang 67)
Cô Năm Phỉ Năm qua đời năm 1952, vì tai biến mạch máu não, khi đang trình diễn ở rạp Nam Quang. Cái chết đột ngột của cô, ngay trên trên sân khấu của ghánh hát Nam Phi, được tất cả các tờ nhật báo ở miền Nam trang trọng loan tin, đã khiến cho khán giả mộ điệu bốn phương bàng hoàng nuối tiếc!
Thập niên 50 và 60 là thời vàng son của nền cổ nhạc, vẫn theo như lời kể của soạn giả Nguyễn Phương:
“Saigon và các tỉnh thành ở miền Nam Việt Nam, có nhiều đoàn hát cải lương như đoàn hát Nam Đồng Ban, Huỳnh Kỳ, Trần Đắc, Phước Cương, Văn Hí Ban, Văn Võ Hí Ban, Tân Thinh, Hữu Thành, Phụng Hảo, Nam Hưng, Kỳ Quan, Tập Ích Ban, Thái Bình, Tiến Hóa, đoàn cải lương Hậu Tấn – Năm Nghĩa, Hậu Tấn – Bảy Cao, Việt Kịch Năm Châu, đoàn Mộng Vân, đoàn Sống Mới – Năm Nở, đoàn hát Phát Thanh, đoàn Tiếng Chuông … (còn nhiều nữa, kể không xiết…)”
Cùng lúc, đây cũng là thời mà “cái nghề nghiệp ca trù (bị ) truy nã tận cùng” – ở bên kia giới tuyến – theo như cách nói của Phùng Cung. Qua truyện ngắn Mộ Phách, tác giả đã kể lại chuyện đập vỡ một cây đàn khác (của một đôi nghệ sĩ khác) sau khi thời thế đã buộc họ phải bỏ nghề:
“Vợ chồng kép Chản, đào Khuê lặng buồn, trăn trở thầm kín, nuối tiếc không phải là sự thất thoát lưng cơm, manh áo, mà là sự đổi thay từ dáng dấp đến vẻ mặt, đến lời ăn tiếng nói của cả vợ chồng. Tư Chản rầu rĩ thương nghề, thương vợ mà không một lời phàn nàn ra miệng.”
“Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái.”
Sự “rầu rĩ thương nghề” của kép Chản, cũng như thái độ “thành kính” của ông với cây đàn – tất nhiên – không qua khỏi tai mắt nhân dân và (cuối cùng) đã lọt đến tai cậu con trai, đang đi bộ đội ở xa. Khi được về phép thăm nhà, cậu không bỏ lỡ cơ hội để “động viên” hai đấng sinh thành:
– “Bố mẹ bình tĩnh nghĩ xem, việc làm lạc hậu ấy, nó kìm hãm bước tiến của con. Có lẽ đâu gia đình của một quân nhân cách mạng lại như vậy. Bố mẹ vẫn tự cùm mình trong thành phần tiểu tư sản nông thôn. Con chậm kết nạp Đảng là vì vậy: là vì cây đàn!
….
Ông Chản như bị cứng lưỡi, không dám nhìn lại con, ngơ ngác; đi lùi lại hai bước; vẫn không cất nên lời. Thuyên giục bố:
– Bố cứ đập quách nó đi!
“Ông Chản nhìn lên cây đàn, mặt nhợt đi, miệng lắp bắp lạc giọng:
– Thôi! Mày đập đi Thuyên ạ!
– Vâng, để con! Mắt Thuyên long lên…
‘Choác!’ một tiếng trước cửa bếp.Thuyên mắm môi, quắc mắt, tay đập, chân đạp vào cần vào đáy đàn khiến cây đàn biến thành củi. Ngoài sân, ông Chản bưng tai như nghe sét đánh, liêu xiêu bước ra ngõ. Bà Chản thoái dạ, “ối” lên một tiếng. Trống ngực rộn rã như xẩy chân từ trên cao xuống, mắt hoa lên, mọi vật trước mắt quay cuồng, bà Chản phải chống hai tay xuống đất để giữ được thế ngồi “cóc vái giời.” Bà cố định thần để nhận biết việc xẩy ra đã xẩy ra. Bà cúi mặt khóc rấm rứt. Nước mắt đứt, nối, kéo dài cả một quá khứ tiêu tan trong giây lát.” [Phùng Cung. “Mộ Phách.” Truyện Và Thơ (Chưa Hề Xuất Bản). Văn Nghệ: California, 2003].
Phùng Cung và bìa tác phẩm “Truyện Và Thơ”. Ảnh: RFI
“Mộ Phách,” theo nhận xét của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Là bài điếu văn cho thi ca, cho âm nhạc trong một thời mà nghệ thuật đích thực không còn chỗ đứng.”
Nghệ Thuật Cách Mạng, rồi ra, cũng chả "đứng” được bao lâu - theo như lời “phàn nàn” của tác giả Đặng Hữu Phúc:
“Hồi cuối tháng 8 vừa qua, show diễn hát theo yêu cầu của họ ở Nhà Hát Lớn giá 1 triệu rưỡi đến 1 triệu 7 cho 1 vé. Biểu diễn hàng nửa tháng trời mà vẫn kín chỗ, không có vé mà mua. Mà hình như họ ăn khách Thủ đô đến ngỡ ngàng, vượt cả sự tưởng tượng của chính họ, nên họ lại đã quảng cáo biểu diễn tiếp tại Nhà hát lớn sau Đại lễ 1000 năm.
Như vậy, ‘sự kiện âm nhạc’ nổi bật trong thời gian trước thềm Đại lễ lại là những đêm nhạc ‘Sến’ của Hương Lan, Tuấn Vũ (!!!) Những chuyện này trước đây không thể xảy ra. Còn nhớ năm 1970, dịp kỉ niệm 200 năm ngày sinh Beethoven, 10 đêm nhạc Beethoven ở Nhà Hát Lớn lúc nào cũng đông nghịt người.
Bây giờ chắc không thể được như thế, ngay mới đây thôi, hai tối 17&18/9/2010, chương trình hòa nhạc ‘VNSO Beethoven cycle Vol.5’ với nghệ sĩ piano nổi tiếng người Nhật Michie Koyama (Người đoạt cả 2 giải quốc tế vào loại lớn nhất : Chopin và Tchaikovsky) thì vắng người xem.
Hàng năm nghệ sĩ Đặng Thái Sơn thường có ít nhất 10-15 buổi concert tại Nhật, nhiều buổi tại Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc…và trên khắp thế giới , còn tại Việt Nam nếu tính đêm diễn trọn vẹn thì 3 hay 4 năm Sơn mới làm một concert tại Việt Nam. Đơn giản vì ngày nay không còn nhiều khán giả biết thưởng thức thứ âm nhạc chuyên nghiệp tinh hoa, và văn hóa nghe nhạc (im lặng tuyệt đối) còn rất thấp. Bây giờ thì số đông người ta chọn nghe Hương Lan – Tuấn Vũ. Vậy văn hóa Hà nội đang xuống cấp so với chính ta?”
Nói thiệt: không nhờ cái ông Phúc này thì phen này tui hố nặng. Ai mà dè rằng người Hà Nội chỉ sính nghe nhạc cổ điển tây phương, và những “đêm nhạc Beethoven ở Nhà Hát Lớn lúc nào cũng đông kìn kịt người” như thế. Vậy mà tui cứ tưởng là dân Hà Thành chỉ toàn nghe loại nhạc loa (giăng mắc khắp 36 phố phường) thôi chớ.
Tôi thực lấy làm tiếc vì sự hồ đồ của mình, và vô cùng cảm kích vì những thông tin rất qúi giá (và cũng rất qúi tộc) mà ông Đặng Hữu Phúc vừa cung cấp. Tôi chưa bao giờ có cơ duyên được đặt chân đến mảnh Đất Ngàn Năm Văn Vật. Một kẻ xa lạ (tới cỡ đó ) mà cứ tiếp tục huyên thuyên nói mãi về Hà Nội, và Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh – xem ra – cũng có hơi kỳ, nếu chưa muốn nói là … lố bịch!
Xin nhường lời lại cho một ông bạn cố tri, vốn người đất Tràng An, một tác giả sinh trưởng trong lòng cách mạng:
« Nơi em về trời xanh không em… ? Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy, còn các Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử… đã bị đánh bật rễ khỏi người đọc, gom lại trong cái nghĩa địa văn hóa cổ, le lói trong ký ức người già. Các tay ‘yêu’ lừng lẫy một thời vẫn còn đấy, nhưng đã biến thành Xuân Diệu Xuân Xanh Xuân… Tóc đỏ. Người ta đã tiêu thổ kháng chiến đến cả yêu đương. Nói đến ‘yêu’ cũng phạm húy, phải gọi là ‘tìm hiểu’, người yêu là ‘đối tượng tình cảm’ (đối tượng đoàn, đối tượng đảng, đối tượng của pháp luật )…Tình yêu không được thi ca ấp ủ, dẫn dắt, hướng thượng, thè lè đi ngoài đường trong những dịp quốc khánh, hội hè đông người để sờ mó, gỡ gạc lẫn nhau, ‘hủ hóa’ với nhau trong nhà kho công sở, hoặc nếu đúng đắn nghiêm chỉnh hơn thì đặt ra tiêu chuẩn ‘3B’ (Bôn sê vích, buồng ở, bia cung cấp) để ‘tìm hiểu’. Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng «Ðồng chí công tác ở cơ quan nào ?…» (Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi. Nguời Việt: California, 1987).
Nghe mà ớn chè đậu!
Thảo nào, khi Hương Lan và Tuấn Vũ mang những bản nhạc sến của miền Nam ra trình diễn thì “họ ăn khách Thủ đô đến ngỡ ngàng.”
Trời, còn “ngỡ ngàng” cái bà gì nữa?
Chớ (không lẽ) suốt ngày cứ bâng khuâng “nhớ đôi dép đơn sơ đôi dép bác Hồ,” suốt đêm cứ nằm mơ thấy “râu Bác dài, tóc Bác bạc phơ,” và suốt đời lúc nào cũng chỉ có mỗi một “nguyện vọng duy nhất” là được dịp “dâng lên cho Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời” sao?
Hát hò kiểu đó hoài, mắc cở chết mẹ, ai mà chịu được? Thỉnh thoảng cũng phải có Chuyện Tình Lan Và Điệp, Hoa Sứ Nhà Nàng, Giọt Lệ Đài Trang, Lâu Đài Tình Ái, Người Yêu Cô Đơn… này nọ – cho nó hợp với tính thật của mình, và đỡ ớn chút xíu – chớ, đúng không?
Đi nghe Hương Lan và Tuấn Vũ hát thử một đêm, giữa lòng Hà Nội, cũng tựa như đi ăn một bữa phở chui vào thời bao cấp vậy. Dù “nhạc sến” không “chất lượng” gì cho lắm nó vẫn có thể khiến cho thiên hạ bùi ngùi, xuýt xoa hay hít hà chỉ vì họ đã (lỡ) phải ăn quá nhiều những tô phở quốc doanh – không người lái – thế thôi!
Giản dị, và trần trụi, chỉ có “thế thôi” mà giáo sư âm nhạc Đặng Hữu Phúc đặt vấn đề rất trầm trọng (nghe) thấy ghê quá hà:
”Nếu ta cứ khuyến khích thế hệ trẻ nghe và ta cứ quảng bá những loại nhạc ‘rác’, nhạc bình dân, ca khúc quần chúng mãi, thì rồi sẽ đến một lúc họ sẽ quay lưng lại với Bach, Beethoven, Chopin.. với Quan họ, Chèo, Ca trù… với văn hoá đích thực. Đó sẽ là chuyện tất yếu và đã xảy ra rồi.” (“Khi Đặng Thái Sơn không thể ‘địch’ lại Hương Lan, Tuấn Vũ” – Báo Mới 24/10/2010)
Coi: Đảng và nhà nước (ta) có “khuyến khích” và “quảng bá những loại nhạc rác” cũng như “nhạc vàng, nhạc sến” bao giờ đâu, Trời? Nói theo nguyên văn lời của Phùng Cung là chúng bị “truy nã đến tận cùng”, từ hơn nửa thế kỷ nay, nhưng vẫn (may mắn) thoát nạn đấy chứ. Chúng cũng bị hết bị nghị quyết này, đến nghị quyết khác (rắp tâm) chôn sống nhiều lần nhưng vẫn không (chịu) chết đấy thôi.
Và nếu (lỡ) quần chúng có quay “lưng lại với Bach, Beethoven, Chopin.. với Quan họ, Chèo, Ca trù… với văn hoá đích thực” thì hãy chỉ mặt vào thủ phạm mà … chửi, chứ sao lại có đổ thừa cho nạn nhân – kỳ cục vậy cha nội?
Bài bình luận gần đây