Song Chi.
Vì sao nhiều người Việt đi làm nail và kinh doanh nghề nail ở Anh và nhiều nước khác?
Ở vùng phía Bắc nước Anh, người Pakistan thường mở nhà hàng, làm tài xế taxi hoặc làm luật sư lo về giấy tờ kinh doanh (ví dụ ở Leeds hay ở Manchester, tôi bước chân lên cái xe taxi của hãng Amber thì 10 lần có đến 9 lần tài xế là người Pakistan), người Philippines nổi tiếng với nghề phụ việc nhà, gọi là au pair, hoặc y tá tại nhà. Phụ nữ Pakistan khi mở tiệm làm đẹp thường giỏi về vẽ lông mày, waxing, threading. Còn người Việt thì làm nail.
Với một người không giỏi ngoại ngữ, làm nail là một nghề dễ học, dễ làm, không cần phải sử dụng ngôn ngữ nhiều, học bằng thực tế, không cần phần lý thuyết. Trong khi đó nếu học nghề cắt uốn tóc, thời gian kéo dài 1-2 năm, học và thi cả lý thuyết lẫn thực hành. Học trang điểm, massage, hay chăm sóc da, cái gì cũng có phần lý thuyết, thi lấy giấy chứng nhận, hoặc có bằng mới làm được. Không có nhiều chủ người Việt kinh doanh mở tiệm tóc hay làm đẹp, vì nhiều người trong số họ cũng không giỏi tiếng Anh, không “điều khiển” thợ bản xứ được, nên tốt nhất là cứ mở tiệm nai, thuê người Việt.
Công bằng mà nói, thợ nail Việt siêng năng, cần mẫn, khéo tay, về mặt kỹ thuật làm móng thì vững, nhưng về mặt nghệ thuật như design, vẽ móng, trang trí thì không bằng thợ Ba Lan, Hunggary hay Hy Lạp. Trang trí, vẽ móng là cả một thế giới làm đẹp cho móng đòi hỏi phải đi học và phải có khiếu thẩm mỹ, biết vẽ.
Nhưng sản phẩm nào thì giá cỡ đó. Những bộ móng được vẽ vời, trang trí, tô điểm cầu kỳ công phu, thực hiện mất cả hàng một, hai, ba tiếng kia giá phải lên tới £50-60/bộ, trong khi bộ móng acrylic extensions-white tips or colours, tiệm nail Việt làm chừng 45-50 phút, giá chỉ chừng £20-25 thôi.
Nhập cư lậu và buôn người-câu chuyện cũ đã hàng chục năm nay…
Từ hơn 10 năm trước, lúc mới bước chân ra khỏi VN và có cơ hội đến Đức, Ba Lan, Tiệp khắc, tôi đã nung nấu ý định làm một bộ phim tài liệu về nạn xuất khẩu lao động và buôn người tại các quốc gia Đông Âu cho tới Malaysia, Đài Loan v.v…Bộ phim tài liệu dự tính có tên “Việt Nam-từ xuất khẩu lao động đến nạn buôn người” (“Vietnam- From Labour Export to Human Trafficking”). Tôi đã đọc và thu thập những bài báo, đã liên hệ với một số tổ chức như Hiệp hội nhân quyền quốc tế (ISHR), Frankfurt, Đức (hiệp hội này là một thành viên của CAMSA, Liên minh bài trừ nô lệ mới ở Á Châu), Văn phòng của tổ chức Camsa-một tổ chức độc lập của người Việt chống nạn buôn người lao động tại Malaysia (Tổ chức CAMSA (tên viết tắt tiếng Anh của Liên minh bài trừ nô lệ mới ở Á Châu (Coalition to Abolish Modern-day Slavery in Asia), Trung tâm giúp lao động và cô dâu VN tại Đài Loan v.v…; đã gặp và phỏng vấn rất nhiều người Việt đang sinh sống và lao động tại Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc.
Từ những ngày đó tôi đã nghe không biết bao nhiêu câu chuyện bi thảm của những người Việt rời nước ra đi làm thuê ở xứ người thông qua các chương trình “lao động xuất khẩu” của nhà nước VN, cho tới những con đường nhập cư lậu vào các quốc gia Đông Âu thông qua vé du lịch đi Nga chẳng hạn.
Hẩu hết người lao động Việt Nam khi chấp nhận rời bỏ nhà cửa, gia đình, quê hương đi làm thuê ở xứ người đều có hoàn cảnh nghèo khó, vất vả, không có công ăn việc làm hoặc có mà không đủ sống ở trong nước. Khi nộp đơn xin đi lao động xuất khẩu ở nước ngoài, họ phải nộp một lệ phí khá cao cho các công ty môi giới lao động trong nước với nhiều lý do là làm thủ tục giấy tờ, tiền đặt cọc để ngăn ngừa họ bỏ việc khi chưa xong hợp đồng v.v… Để có được số tiền này, hầu hết họ phải cầm cố nhà cửa, đất đai, vay nợ ngân hàng hoặc vay mượn họ hàng, người quen…Về sau này là nộp tiền cho những kẻ môi giới đưa người đi nhập cư lậu-như chúng ta vừa nghe qua thảm kịch ngày 23.10, số tiền lên đến hơn £30,000/người!
Do vậy mỗi người khi phải ra đi đều gánh trên vai một món nợ khá là nặng nề và họ phải làm việc bất kể trong điều kiện như thế nào, trước hết là để trả nợ, để nuôi gia đình ở nhà, và sau đó là gom góp ít vốn trở về nhà. Do khao khát muốn đi làm để kiếm tiển nhưng lại thiếu hiều biết, những người nghèo ở Việt Nam muốn đi lao động ở nước ngoài rất dễ bị bắt nạt, bị thiệt thòi, xử ép, thậm chí bị lừa, từ những công ty môi giới ở trong nước cho đến những công ty lao động ở nước ngoài.
Phía sau mỗi người đi làm thuê ớ xứ người là cả một gánh nặng gia đình phải cưu mang, là những câu chuyện đời đắng cay, đầy nước mắt. Đã vậy, khi chấp nhận ra đi làm thuê ớ xứ người, nhiều người lại phải chịu thêm những bi kịch khác. Có người làm việc vất vả quá chịu không nổi, bị cho nghỉ hoặc bỏ ra ngoài rồi bị cảnh sát bắt, trục xuất về nước. Có người đi làm xa lâu quá chồng hay vợ ở nhà thay lòng đổi dạ, thế là mất chồng, mất vợ, gia đình ly tán. Lại có người cả chồng lẫn vợ đều đi làm ăn xa, con cái ở nhà không ai chăm nom dạy dỗ, đâm ra hư hỏng, bỏ học, phạm pháp phải vào tù. Có người thiếu may mắn hơn lại gặp phải công ty môi giới chuyên lừa đảo, phải sa chân vào con đường mại dâm, làm gái điếm ở nước người. Lại có người bị tai nạn lao động trở thành tàn phế, thậm chí bị chết….
Tiếc rằng bộ phim không tìm được nguồn tài trợ nên không thể thực hiện. Vài năm sau tôi lại cố gắng xin tài trợ từ quỹ Norsk faglitterær forfatter- og oversetterforening (NFFO) (Norwegian Non-Fiction Writers and Translators Association) để viết cuốn sách có cùng tên, cùng chủ đề nhưng cũng không nhận được tài trợ. Có lẽ với Na Uy đây không phải là vấn đề họ quan tâm lắm vì không trực tiếp xảy ra trên đất nước họ?
Ngoài con đường “xuất khẩu lao động”, sau này, người lao động Việt lại lũ lượt rủ nhau tìm đường đi lao động chui. Từ Anh cho tới các quốc gia châu Âu khác, tình trạng người nhập cư lậu nói chung và người Việt nói riêng chẳng còn là hiện tượng mới mẻ gì mà đã có từ hàng chục năm nay, các tổ chức buôn người ngày càng hoạt động tinh vi, mức độ quy mô hơn, với những đường dây nối dài từ Nga, từ Trung Quốc sang các nước châu Âu và điểm dừng cuối cùng thường là Đức hoặc Anh.
Từ năm bảy năm trước nước Anh và thế giới đã được biết đến những câu chuyện, những hình ảnh bi thảm về “người rơm” (người nhập cư lậu) do chính một số nhà báo tự do người Việt lẫn quốc tế viết lại, quay lại, về những con người đã phải trải qua những hành trình dài gian khổ, nguy hiểm rồi ăn chực nằm chờ ở trong những khu rừng của thành phố cảng Calais, Pháp trước khi tìm đường vào nước Anh. Chính phủ Pháp đã cố gắng càn quét, dẹp sạch khu vực này vào tháng 10.2016 nhưng cho đến bây giờ, vẫn có những lán trại người Việt và người nước khác tìm cách nhập cư lậu vào Anh ở đây.
Hiện tượng không mới. Những câu chuyện về thân phận người Việt tìm đường đi làm thuê ở xứ khác thì vẫn thế, còn nguy hiểm hơn vì không phải đi "chính thức" theo ngạch "xuất khẩu lao động" mà là đi lậu, nhập cư bất hợp pháp vào nước khác. Còn lại vẫn là nợ nần, máu và nước mắt, và những kẻ buôn người ăn nên làm ra trên sự may rủi, sống chết của người khác.
Bi kịch từ đâu?
Nếu bi kịch 39 người Việt chết ở hạt Essex, nước Anh ngày hôm nay không xảy ra thì sớm muộn cũng xảy ra.
Có những bài báo của nhà nước VN còn lên tiếng rằng “đừng cái gì cũng đổ lỗi cho chính quyền”, hoặc thậm chí, cho rằng xảy ra thảm kịch này là do…chính sách nhập cư khó khăn của nước Anh.
Các nước phát triển ở châu Âu từ mấy chục năm nay đã khốn khổ với tình trạng người nhập cư nói chung và nhập cư bất hợp pháp nói riêng. Ở Anh có những khu vực, thành phố mà người nhập cư chiếm đa số và dần dần biến khu vực đó, thành phố đó thành “xứ” của họ, ví dụ Bradford hay Birmingham chẳng khác nào những thành phố của người Hồi giáo với bảng hiệu, cửa hàng, quán xá đặc trưng về văn hóa, với hình ảnh phụ nữ Hồi giáo trùm kín từ đầu tới chân, đàn ông Hồi giáo mặc trang phục của họ đi ngoài đường. Ở những nơi như vậy, người nhập cư có thể ăn thức ăn của nước mình, sử dụng các dịch vụ của đồng bào mình và có thể sống cả đời không cần phải nói tiếng Anh, không cần phải hội nhập.
Bao nhiêu vấn đề nảy sinh từ những khác biệt về văn hóa, tôn giáo cho tới vấn đề cung cấp công ăn việc làm, an sinh xã hội, tình trạng tội phạm v.v…
Vấn đề về người nhập cư và làm sao giải quyết cân bằng giữa những lý do nhân đạo và những xung đột, mâu thuẫn khác luôn luôn làm đau đầu chính phủ các nước phát triển nói chung và nước Anh nói riêng. Dù nhân đạo, họ cũng không thể mở toang cửa hay dễ dãi hơn để người nhập cư vào thoải mái, và ngoài Mỹ, thì Anh thì là một trong những điểm đến ưa thích của công dân nhiều quốc gia. Cho nên thật vô lý khi trách chính sách cho nhập cư của họ khó khăn.
Nhà nước VN phải tự hỏi mình rằng đâu là nguyên nhân gốc rễ của hiện tượng người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi, không ngừng, từ sau ngày VN thống nhất cho đến tận bây giờ, hơn 40 năm sau? Những năm đầu khi hàng trăm ngàn người Miền Nam bỏ nước ra đi, nhà cầm quyền còn đổ thừa rằng đó là những con người không có tinh thần yêu nước, những kẻ ham bơ thừa sữa cặn, ham bám đuôi người Mỹ, không chịu được xã hội mới nên bỏ đi.
Nhưng bây giờ sau hàng chục năm, người Việt vẫn bỏ nước ra đi, bằng mọi cách, thuộc mọi tầng lớp khác nhau, từ những người dân nghèo tìm đường đi làm thuê ở xứ người cho tới tầng lớp du học sinh, trí thức học xong rồi tìm đường ở lại, thậm chí cả tầng lớp giàu có, đang thành đạt, những người đang làm việc cho bộ máy nhà nước, đảng viên đảng cộng sản cũng tìm đường cho con cháu họ ra đi và cho chính họ, một “bãi đáp” sung sướng, nhàn hạ sau khi đã về hưu. Như vậy có lý do gì để đổ thừa ngoại trừ một thực tế rành rành là sự thất bại của đảng và nhà nước cộng sản VN trong việc tạo ra một đất nước khiến người ta vui vẻ sống và không nghĩ đến chuyện bỏ nước ra đi?
44 năm cầm quyền duy nhất, đảng và nhà nước cộng sản VN phải chịu trách nhiệm về sự thất bại của họ trong việc xây dựng VN trở thành một quê hương đáng sống, một môi trường xã hội trong lành và bình yên về mọi nghĩa, một thị trường lao động công bằng với mức thu nhập đủ sống cho người dân. Đó là những yêu cầu tối thiểu!
Đảng và nhà nước cộng sản là một đảng cầm quyền thất bại về mọi mặt, chỉ trừ việc bằng mọi giá giữ được chính quyền và họ cũng chỉ cần có thế, bất chấp hiện trạng và tương lai đất nước, dân tộc. Hệ thống chính trị-xã hội độc đảng độc quyền mang cái vỏ Mác Lênin, cái vỏ XHCN nhưng ruột thì là phong kiến cộng với độc tài cộng với tư bản thời hoang dã, là một hệ thống thất bại, đáng phải vứt vào sọt rác từ lâu.
Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, VN là một quốc gia thất bại từ kinh tế, y tế, giáo dục, môi trường, văn hóa, đạo đức xã hội, chính sách ngoại giao cho đến chính sách phát triển về con người và hệ quả của nó là việc dòng người vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi. Bốn mươi năm trước thì một nửa trong số họ vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương, hoặc trải qua những bi kịch mất sạch tất cả, bị cướp bóc, hãm hiếp trước khi đến được bến bờ tự do, bốn mươi năm sau là những cái chết khát-chết ngạt, chết cóng trong container xe tải, chết đói chết bịnh hoặc cũng lại bị cướp bóc, hãm hiếp trên những hành trình dài ra đi.
Và bi kịch 39 người chết hôm nay sẽ không dừng lại. Khi nào VN chưa thay đổi về thể chế chính trị xã hội để VN có thể phát triển thành một quốc gia đáng sống hơn.
Có dân tộc nào phải trải qua hết bất hạnh này đến bất hạnh khác như dân tộc tôi, đồng bào tôi?
Bài bình luận gần đây