You are here

16 năm khu kinh tế mở Chu Lai: Thành công hay thất bại?

Ảnh của NguyenTrangNhung

Hình: Tổ hợp ô tô Trường Hải trong KKTM Chu Lai (Nguồn: Internet)

Cách đây 16 năm, khu kinh tế mở (KTTM) Chu Lai chính thức được thành lập bằng Quyết định 108/2003/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ. Quyết định này nhắm đến mục tiêu cũng như mở ra cơ hội cho tỉnh nghèo Quảng Nam phát triển kinh tế và vươn lên vị thế tầm cỡ trong các tỉnh miền Trung.

Các mục tiêu cụ thể hơn là áp dụng các thể chế, cơ chế chính sách mới, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng; áp dụng các mô hình, động lực mới cho phát triển kinh tế; phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu; tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.[1]

Vào thời điểm đó, Việt Nam đã có sẵn một số mô hình khu cũng như các khu tương ứng, như khu chế xuất (KCX), khu công nghiệp (KCN), khu công nghệ cao (KCNC), và khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK). 

So với các mô hình khu đã có, mô hình KKTM – cũng như mô hình KKTCK – là một loại mô hình khu kinh tế (KKT) mà các điều kiện nhìn chung là ưu đãi hơn. Ngoài các ưu đãi cho các KKT, Chu Lai có một số ưu đãi đặc thù được quy định trong Quyết định 108/2003/QĐ-TTg, chẳng hạn:

  • được áp dụng những thủ tục hải quan thuận lợi (Điều 11); 
  • các dự án đầu tư trong nước được xem xét, phê duyệt theo quy định hiện hành với các thủ tục đơn giản nhất (Khoản 1, Điều 14); 
  • tất cả dự án đầu tư được hưởng các ưu đãi tối đa của KKT áp dụng đối với địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (Khoản 2, Điều 14).

Các thành tựu bước đầu của các mô hình khu đã có là một phần nguyên nhân để mô hình KKTM được triển khai. Đến nay, KKTM Chu Lai đã đạt được những gì?

Tính đến gần cuối năm 2018, KKTM Chu Lai có 158 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 4,52 tỷ USD, trong đó có 115 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký hơn 66.200 tỷ đồng, 43 dự án FDI với tổng vốn đăng ký hơn 1,3 tỷ USD.[2] 

Số dự án đã đi vào hoạt động là 111 với tổng vốn thực hiện là 68.000 tỷ đồng,[3] trong đó có 78 dự án đầu tư trong nước và 33 dự án FDI. Phần lớn dự án thuộc ngành công nghiệp, tiếp đến là ngành du lịch, thương mại, và xây dựng cơ sở hạ tầng.

Số lao động tính đến ngày 12/11/2018 là hơn 25 ngàn người trong đó tổ hợp ô tô Trường Hải có 9.730 người, Khu công nghiệp Tam Thăng có 7.718 người, Khu công nghiệp Bắc Chu Lai có 6.089 người, KCN Tam Hiệp có 728 người, các dự án ngoài Khu công nghiệp có 1.152 người.[4]

Hàng năm, KKTM đã đóng góp bình quân 65% tổng thu ngân sách tỉnh, giúp tăng thu ngân sách cho tỉnh và đưa Quảng Nam trở thành địa phương tự cân đối trên 50% tổng nhu cầu chi.[5] Trong 2 năm 2016 và 2017, tỷ trọng trong tổng thu ngân sách tỉnh mà KKT đã đóng góp lần lượt là 75% và 70%.[6] 

Chủ lực của KKTM Chu Lai là tổ hợp ô tô Trường Hải. Ngoài sản xuất ô tô, Trường Hải còn phát triển công nghiệp hỗ trợ. Việc Trường Hải đặt chi nhánh tại Quảng Nam vào năm 2003 là kết quả của nỗ lực trong gần 2 năm (2002 – 2003) của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam lúc đó là ông Nguyễn Xuân Phúc trong việc thuyết phục chủ tịch hội đồng quản trị của Trường Hải là ông Trần Bá Dương.[7]

Những gì đạt được kể trên có cho thấy KKTM này thành công hay không?

Nếu chỉ nhìn vào các thông tin trên, thông thường người ta có khó có thể đánh giá.

Theo nhận định của một số tác giả, Chu Lai không (hay chưa) thành công.

Trong một nghiên cứu của mình và các cộng sự, tác giả Huỳnh Thế Du cho rằng kết quả của Chu Lai là rất hạn chế (tính đến thời điểm của nghiên cứu là năm 2014).[8]

Vũ Ngọc Hoàng, nguyên bí thư tỉnh Quảng Nam, trong một bài viết cho kỷ yếu 15 năm thành lập KKTM Chu Lai (năm 2018) thì cho rằng Chu Lai chưa thành công nếu so với các ý định và yêu cầu được đặt ra ban đầu khi xây dựng đề án. Ông cũng cho rằng Chu Lai có lợi thế lớn nhất là tiềm năng phát triển du lịch, song lĩnh vực này chỉ có một vài dự án mà thôi.[9] 

Vũ Thành Tự Anh, tác giả một nghiên cứu cũ hơn (năm 2012), mặc dù không đưa ra nhận định trực tiếp nào về thành công hay thất bại của KKTM này, song cho thấy KKTM này còn nhiều hạn chế cản trở sự thành công của nó, liên quan đến các yếu tố như vị trí địa lý, phân quyền quản lý, và năng lực cán bộ, v.v.[10]

Như vậy, dựa vào các tác giả trên đây, có thể cho rằng thành công chưa đến với Chu Lai.

Mặc dù có nhiều ưu đãi chung lẫn riêng, Chu Lai không đạt được những thành tựu cần thiết để trở thành KKTM phát triển tương xứng với các điều kiện thuận lợi cũng như với các mục tiêu ban đầu.

KKTM Chu Lai, do đó, khó có thể trở thành một hình mẫu cho việc nhân rộng mô hình khu kinh tế này, cũng như khó có thể làm động lực cho việc phát triển các đặc khu trong tương lai, nếu có.

Chú thích:

[1] Điều 3 Quy chế hoạt động của KKT mở Chu Lai (ban hành kèm theo Quyết định 108/2003/QĐ-TTg)

[2] Số liệu do Ban Quán lý khu kinh tế mở Chu Lai cung cấp

[3] Ngọc Phúc (2018), "15 năm Khu kinh tế mở Chu Lai: Thu hút 4,5 tỷ USD vốn đầu tư"
http://saigondautu.com.vn/kinh-te/15-nam-khu-kinh-te-mo-chu-lai-thu-hut-...

[4] Như [2]

[5] Thu Hồng và Vĩnh Nhân (2018a), "Tác động của khu kinh tế mở Chu Lai đối với sự phát triển của tỉnh Quảng Nam", Kỷ yếu 15 năm thành lập khu kinh tế mở Chu Lai

[6] Số liệu do Ban Quản lý khu kinh tế mở Chu Lai cung cấp

[7] Thu Hồng và Vĩnh Nhân (2018b), "Nhìn lại 15 năm "con Sếu lớn" THACO bén duyên cùng đất Quảng", Kỷ yếu 15 năm thành lập khu kinh tế mở Chu Lai

[8] Huỳnh Thế Du và đ.t.g (2014), "Từ khu kinh tế đến phát triển và liên kết vùng: Tạo đột phá thể chế"

[9] Vũ Ngọc Hoàng (2018), "Về khu kinh tế mở Chu Lai", Kỷ yếu 15 năm thành lập khu kinh tế mở Chu Lai

[10] Vũ Thành Tự Anh (2012), "Khu kinh tế mở Chu Lai: Phòng thí nghiệm cho đổi mới thể chế và chính sách ở một số nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung"

(Nhiều đoạn trong bài viết này được dẫn từ luận văn thạc sỹ Chính sách công của người viết với đề tài 'Dự báo hiệu quả của các đặc khu tại Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam' tại Đại học Fulbright Việt Nam.)