You are here

Ấu dâm-loại tội phạm vẫn chưa được xử lý đúng mức ở VN

Ảnh của songchi

Song Chi.

Những ngày gần đây báo chí và mạng xã hội facebook Việt Nam bỗng “nóng” lên với những vụ ấu dâm gây bức xúc dư luận. Cụ thể là gia đình 3 bé gái từ 6 đến 8 tuổi ở Vũng Tàu, TP.HCM và Hà Nội đã gửi đơn đến công an tố cáo việc con họ bị kẻ xấu xâm hại, nhưng cho đến nay chưa có vụ nào được làm sáng tỏ và thủ phạm vẫn nhởn nhơ.

Trong đó vụ ông cụ 76 tuổi nhà ở phường Nguyễn An Ninh, TP Vũng Tàu bị nghi đã có hành vi dâm ô ít nhất từ 6 tới 9 đứa trẻ ở cùng chung cư, nhưng chỉ có một gia đình lên tiếng và quyết tâm theo đuổi vụ việc đến cùng, đã điều tra kéo dài hơn 8 tháng. Hãng luật thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bé gái này đã phải gửi thư đến Quỹ Nhi đồng LHQ cũng như ông Chủ tịch nước Trần Đại Quang để vụ án khỏi bị “chìm xuồng”.

Trước câu hỏi của báo chí “Vì sao vụ dâm ô trẻ em ở Vũng Tàu chưa thể khởi tố sau gần 1 năm?” (Zing.vn), phía bên điều tra đã trả lời do chưa đủ chứng cứ nên không thể khởi tố: “Viện trưởng VKSND TP Vũng Tàu nói rằng khi hết thời hạn 3 tháng điều tra, cơ quan chức năng đã gia hạn lần đầu là 3 tháng và lần thứ 2 là 2 tháng. Đến tháng 4/2017, nếu việc điều tra không mang lại kết quả thì lực lượng chức năng buộc phải đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.”

Vụ dâm ô này vì không để lại vết tích rõ ràng trên thân thể các em nên việc điều tra có thể hơi khó khăn hơn. Nhưng 2 vụ còn lại, một em bé 8 tuổi ở phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, đã có kết quả khám nghiệm pháp y, kẻ bị tình nghi là người quen với gia đình cũng đã thừa nhận, có băng ghi âm; vụ em bé 7 tuổi nghi bị xâm hại tại trường tiểu học ở quận Thủ Đức, TP.HCM cũng có dấu vết thương tích, có kết quả khám nghiệm y tế, có nêu tên kẻ tình nghi, nhưng vẫn đang trong vòng điều tra dù một vụ đã xảy ra hơn 2 tháng, vụ kia hơn 1 tháng.

Nếu thử google chúng ta sẽ giật mình khi thấy những vụ từ dâm ô cho tới xâm hại, cưỡng bức trẻ em ở VN không phải là ít. Thậm chí, theo báo Tuổi Trẻ:

“Số vụ xâm hại tình dục trẻ em đang gia tăng. Trong ba năm gần đây, trung bình mỗi năm ở nước ta có trên 1.000 vụ được ghi nhận, cứ 8 giờ lại có thêm một trẻ bị xâm hại tình dục.

Trẻ bị xâm hại tình dục đang chiếm tới trên 70% trẻ bị xâm hại nói chung và đang ở mức báo động…” (“Cứ 8 giờ có 1 trẻ bị xâm hại tình dục nhưng khó điều tra”).

Bài báo cũng nêu lên thực trạng nhiều vụ bị “chìm xuồng” hoặc bị xử lý theo hướng làm nhẹ, vì “quy định hiện hành còn chưa rõ ràng, trong khi tìm chứng cứ những vụ dâm ô trẻ em khó khăn nên nhiều nghi can dâm ô trẻ em chậm bị điều tra, xử lý.”

Theo dõi báo chí và cả thực tế ở VN một thời gian dài, chúng ta sẽ hiểu tại sao nạn ấu dâm ngày càng gia tăng, càng trở nên nghiêm trọng hơn. Cùng với việc nạn nhân có thể ở bất cứ lứa tuổi nào, kể cả một, hai, ba tuổi; kẻ phạm tội có thể là bất cứ ai từ trẻ vị thành niên không hiểu biết về pháp luật cho tới ông già gần đất xa trời, từ những con người ít học, thiếu hiểu biết cho tới những nhân vật có học, có địa vị trong xã hội, từ người lạ cho tới những con người lẽ ra phải đáng tin cậy, đáng kính nhất, ví dụ như thầy giáo, hiệu trưởng, thầy thuốc…Hoặc là những người thân trong gia đình như cha ruột, cha dượng, chú, bác, ông…

Có những vụ để lại hậu quả nghiêm trọng như có mang khi còn ít tuổi: ở Vĩnh Phúc “Bé gái lớp 9 bị bác rể cưỡng hiếp: 10 ngày trước khi sinh bố mẹ mới biết con mang bầu” (Đời Sống Việt Nam), “Thanh Hóa: Bé gái bị cưỡng bức, mang thai tới tháng thứ 7 gia đình mới phát hiện ra” (Báo Mới), “Nỗi cay đắng của những bé gái phải "lên chức mẹ" vì bị cưỡng hiếp” (Tin tức Việt Nam)…Hoặc tự sát: Yên Bái “Vụ bé gái 11 tuổi tự tử vì bị cưỡng hiếp: Điều gia đình lo sợ...” (Phụ Nữ), Cà Mau “Thiếu nữ 13 tuổi tự tử sau khi tố bị hàng xóm xâm hại” (Zing.vn)…Hoặc để lại những tổn thương nặng nề cả thể xác lẫn tinh thần, khó hồi phục.

Có nhiều nguyên nhân. Ở các quốc gia văn minh, luật pháp nghiêm ngặt, tất cả các hành vi tình dục có liên quan tới trẻ em bao gồm dâm ô, xâm hại, cưỡng bức hay kể cả quan hệ tình dục có sự đồng ý của trẻ, đều bị xếp vào loại tội nặng và bị pháp luật trừng phạt rất nghiêm khắc. Không chỉ bị phạt tù nhiều năm mà sau khi ra tù người phạm tội còn bị đưa vào danh sách theo dõi suốt đời, bị cấm sinh sống tại những khu vực có nhiều trẻ con, hoặc làm những công việc có thể có cơ hội tiếp xúc với trẻ, và nhiều biện pháp kiểm tra, đề phòng tái phạm khác.

Tại một số quốc gia tội phạm này còn bị “thiến hóa học” để làm giảm thiểu tới mức thấp nhất nhu cầu về tình dục. Ở VN, điều này cũng mới được nêu lên nhưng chắc chắn chuyện thực thi sẽ còn rất xa vời (“Luật sư đề nghị “thiến” hoá học tội phạm tình dục trẻ em”, Người Lao Động).

Trong khi đó, như bài báo trên báo Tuổi Trẻ đã nêu ở trên, nhiều vụ ấu dâm bị “chìm xuồng” hoặc bị xử lý theo hướng làm nhẹ. Thường gặp nhất là việc điều tra kéo dài khiến gia đình nạn nhân mệt mỏi, nhiều lúc buông luôn, còn nhiều kẻ phạm tội vẫn ung dung không bị trừng phạt khiến những kẻ khác chưa biết sợ.

Đó là chưa nói những vụ đưa lên báo chỉ là phần nổi của tảng băng, còn biết bao nhiêu vụ khác do nạn nhân không biết hoặc không muốn nói ra, gia đình cũng không muốn tố cáo sợ làm lớn chuyện thì nhiều người biết, con mình thêm xấu hổ, nhục nhã và ảnh hưởng tới tương lai của con sau này (!).

Bên cạnh sự chậm trễ, quan liêu, thậm chí có những vụ có dấu hiệu bao che, lấp liếm từ phía cơ quan điều tra, pháp luật, là thái độ, cách ứng xử của xã hội đối với những loại tội phạm này. Có hai thái cực: trên báo, trên mạng khi có một câu chuyện như vậy xảy ra chúng ta thấy người đọc thường có thái độ phẫn nộ, lên án nặng nề, đòi xử lý thật nặng, thậm chí đề nghị những biện pháp trừng phạt rất kinh, chẳng khác nào thời…Trung cổ!

Nhưng trong thực tế thì lắm khi nạn nhân và gia đình lại phải đối mặt với những sự vô cảm đến tàn nhẫn, từ gia đình của thủ phạm không có một lời xin lỗi, một hành động thích đáng. Hay trong trường hợp của em bé 7 tuổi nghi bị xâm hại ngay tại trường học thì từ hiệu trưởng, cô chủ nhiệm, cô bảo mẫu đều lảng tránh trách nhiệm, khẳng định không thể có chuyện xâm hại xảy ra. “Sự im lặng đáng sợ trong nghi án bé gái lớp 1 bị xâm hại ngay tại trường” (Infonet). Cô bảo mẫu hay ngay cán bộ điều tra còn nói những điều khó nghe, làm tổn thương thêm cho trẻ và gia đình "Tôi sốc khi họ nói con tôi xem phim đen nên tưởng tượng ra vụ việc" (Tin tức online).

Các cơ quan như Hội phụ nữ, Hội bảo vệ trẻ em…cũng không mấy khi lên tiếng.

Cuối cùng là trách nhiệm của gia đình. Chúng ta thấy phần lớn những vụ xâm hại trẻ em là từ những người có quen biết, thậm chí có quan hệ gần gũi với trẻ và gia đình nên bản thân gia đình và trẻ không đề phòng. Nhiều gia đình rất “hồn nhiên” khi gửi gắm trẻ cho hàng xóm, chú bác, anh họ…trông coi giùm, nhiều bậc phụ huynh do ít học, bận rộn với viêc mưu sinh nên không để ý canh chừng con sát sao, có những bậc phụ huynh khác thì lại ngần ngại khi phải đề cập đến những chuyện có liên quan đến tình dục nên không giáo dục cho trẻ cách tự bảo vệ mình từ khi còn nhỏ.

Lại phải so sánh với nhiều nước phương Tây, cha mẹ rất cẩn thận, cảnh giác với sự an toàn của con và họ thường dạy con cách tự bảo vệ mình từ khi còn rất nhỏ. Ví dụ như có những bộ phận trên cơ thể trẻ tuyệt đối không cho phép ai đụng chạm vào và cũng không đụng vào của người khác nếu họ có bảo trẻ làm như vậy, khi có ai đụng chạm vào những chỗ đó thì phải phản ứng ra sao; không nói chuyện với người lạ, không nhận quà, kẹo bánh, leo lên xe hay đi theo người lạ; nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra phải kể lại với cha mẹ, thầy cô chứ không nghe theo lời người khác rằng đây là “bí mật chỉ có hai chúng ta biết” v.v…

Xã hội VN ngày càng trở nên không an toàn khi chính những môi trường lẽ ra phải an toàn nhất như nhà trẻ, trường mầm non, trường tiểu học hay bệnh viện cũng xảy ra chuyện, luật pháp thì không phải bao giờ cũng hiệu quả, nên cha mẹ đành phải để mắt đến con và dạy cho con cách tự bảo vệ mình. Khi con lớn hơn một chút thì nên nói chuyện thẳng thắn với con về giới tính, tình dục để con biết những gì nên, không nên làm.

Và trước thực tế có nhiều chuyện xâm hại trẻ em bị điều tra chậm chạp, thậm chí “chìm xuồng”, nhiều người chỉ còn biết trông cậy vào báo chí, vào mạng xã hội để góp phần vạch mặt kẻ phạm tội ra trước ánh sáng, đòi lại công lý cho nạn nhân. Nếu muốn không còn tình trạng báo chí, nhất là mạng xã hội lắm lúc đã quá hăng hái làm thay nhiệm vụ của tòa án, thì các cơ quan điều tra, pháp luật cần phải thay đổi cách làm việc, thông tin nhanh chóng kịp thời, xử lý vụ việc hiệu quả hơn để tạo lòng tin trong người dân.