You are here

Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không (IV)?

Ông Nguyễn Phú Trọng có lệ thuộc vào Trung Quốc không ? Ông Trọng lệ thuộc vào Trung Quốc nhiều hơn hay ít hơn những lãnh đạo khác?

Để trả lời câu hỏi này, và để tránh một định kiến đang lưu truyền mặc định rằng các lãnh đạo cộng sản đều là những người bán nước, cần nhìn ngược lại quá khứ tương đối gần của Việt Nam để thấy thái độ của các lãnh đạo cộng sản Việt Nam trước 1990. Năm này được dùng làm mốc bởi Hội nghị Thành Đô vào hai ngày 3-4, tháng 9 năm 1990 có thể đã tạo ra một bước ngoặt trong quan hệ Việt-Trung, điều này cần chờ đợi các sử gia làm sáng rõ. Từ mốc thời gian này, Việt Nam đi dần vào quỹ đạo Trung Quốc.

 Sự khách quan buộc chúng ta phải thấy rằng, trước thời điểm 1990, lãnh đạo Việt Nam đã luôn cố gắng giữ lập trường độc lập với các nước trong hệ thống, cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, dù rằng để tiến hành chiến tranh họ cần sự viện trợ của những nước này. Sử gia Céline Marrangé đã phân tích rất kỹ lập trường này trong cuốn “Le communisme vietnamien (1919-1991)”. Chỉ xin nêu một chi tiết: khi Mao Trạch Đông mất, Trung Quốc lúc đó còn xung đột căng thẳng với Liên Xô nên cử người sang Việt Nam để học kỹ thuật ướp xác, nhưng Việt Nam đã thẳng thừng từ chối. Lãnh đạo Việt Nam hồi đó hẳn không thể hình dung được những người kế nhiệm họ sau này sẽ để lọt tất cả các vị trí chiến lược xung yếu nhất của đất nước vào tay Trung Quốc bằng hình thức cho thuê dài hạn.  Các cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 và hải chiến Trường Sa năm 1988 cho thấy rằng lãnh đạo Việt Nam thời điểm đó “không sợ” Trung Quốc, và không chịu lệ thuộc vào Trung Quốc.

Thời điểm 1990, một bộ trưởng như Nguyễn Cơ Thạch còn dám chấp nhận hy sinh sự nghiệp chính trị của mình vì tinh thần độc lập dân tộc, vì “không sợ” Trung Quốc. Một thái độ như vậy, ở thời điểm này dường như không còn tìm thấy ở một quan chức đương nhiệm nào.

Câu hỏi là vì sao những năm 79, 88 Việt Nam nghèo hơn bây giờ rất nhiều, khó khăn hơn rất nhiều mà lãnh đạo không sợ Trung Quốc? Một phần của câu trả lời là: bởi vì lúc đó lãnh đạo Việt Nam có tinh thần độc lập và Việt Nam chưa nằm trong quỹ đạo của Trung Quốc.

Ngày nay, điều mà ta có thể nói là lãnh đạo Việt Nam từ 1990 trở lại đây đã dần dần đẩy đất nước vào trong quỹ đạo của Trung Quốc trên nhiều phương diện: chính trị (thể hiện ở phương châm bốn tốt mười sáu chữ vàng, và sự rập khuôn của các hình thức tổ chức chính trị nhập khẩu từ Trung Quốc), kinh tế (chỉ cần gõ cụm từ “kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung quốc” lên google sẽ thấy mức độ lệ thuộc như thế nào), văn hóa (các sản phẩm sách, phim truyện, nhạc… tràn ngập từ truyền hình trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm). Trong đó sự phụ thuộc về kinh tế là quan trọng nhất. Việc chủ động giao các vị trí chiến lược của lãnh thổ vào tay Trung Quốc xuất phát từ động cơ nào nếu không phải là từ các món lợi khổng lồ mà những người ký kết các hợp đồng cho thuê thu được từ Trung Quốc? Khi ký các hợp đồng cho thuê đó, đất nước, lãnh thổ, quốc gia, dân tộc có lẽ đã hoàn toàn biến mất trong đầu những người ký, trong đầu họ chỉ còn tồn tại khoản tiền thu được từ chữ ký của họ.

Vậy, ông TBT, cũng như toàn bộ guồng máy lãnh đạo làm sao thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc? Điều đáng nói là từ những gì diễn ra trên biển Đông, và từ sự so sánh với những gì mà chính phủ Philippines tiến hành để bảo vệ chủ quyền lãnh hải của họ, dân chúng được chứng kiến bộ máy lãnh đạo Việt Nam hiện hành “sợ” Trung Quốc đến như thế nào.

Ông TBT, với tư cách là người đứng đầu đảng cầm quyền, ông phải kế tục những gì mà các vị tiền nhiệm để lại cho ông, kể cả những thỏa thuận Thành Đô mà cho đến nay ông vẫn không thể công bố cho dân chúng, lẫn cái sứ mạng là phải xây dựng và bảo tồn đảng. Ngoài ra, sự thâm thủng ngân sách do những “quả đấm thép” như Vinashin, Vinalines… đấm thẳng vào mặt quốc gia khiến tiền ngân sách chui sạch vào túi của các quan tham đủ các cấp từ trên xuống dưới; quân đội yếu kém, không có vũ khí, không có thực lực, không có sức mạnh vật chất để đương đầu bằng vũ lực với Trung Quốc. Và nhất là sự lệ thuộc về kinh tế. Các quỹ đất cho Trung Quốc thuê dài hạn nằm ở các vị trí chiến lược cũng có thể trở thành những nguy cơ nếu Trung Quốc sử dụng như một phương tiện để đe dọa Việt Nam. Đây là lý do khiến cho ông Nguyễn Phú Trọng tất yếu phải sợ Trung Quốc, nếu xét theo lo-gic hình thức. Nhưng không chỉ có mình ông. Ông, và toàn bộ các quan chức chính phủ, từ Thủ tướng trở xuống, đều phải tụng  niệm “bốn tốt và mười sáu chữ vàng”, phải ra sức giữ hòa hiếu, khi gặp Tập Cận Bình tùy mức độ mà phải bắt tay nồng nhiệt hoặc ôm hôn thắm thiết, điều này hoàn toàn có thể hiểu được.

Ông Tổng bí thư có một lý do căn bản để lệ thuộc vào Trung Quốc.

Và ông Nguyễn Phú Trọng có một lý do để Trung Quốc không điều khiển được ông.

Ở đây ta sẽ đề cập đến vấn đề thứ hai trước: ông Trọng có lý do để thoát khỏi sự thao túng của Trung Quốc không?

Trả lời câu hỏi này không đơn giản như những người đang muốn chúng ta tin rằng ông Trọng đóng vai trò Trần Ích Tắc.

Đến đây mở ngoặc đi ra ngoài lề một chút để nêu một câu hỏi: nếu ở thời điểm này dân chúng tin rằng ông Trọng là một Trần Ích Tắc hiện đại thì điều này sẽ có lợi cho ai? Ngoài ra, thật đáng ngạc nhiên khi dàn đồng ca trên những website đã biến mất như “Ý kiến đảng viên” và nhiều bút danh xuất hiện trên nhiều website khác nhau đồng thanh chỉ trích ông Nguyễn Phú Trọng là giáo điều, đồng thời lại tụng ca Thủ tướng đương nhiệm như là một người có tinh thần cải cách vào bậc nhất ở Việt Nam, chỉ dựa vào một vài phát ngôn. Cũng dựa vào phát ngôn, nếu chúng ta thử đọc một bài diễn văn rất gần đây của Thủ tướng, ngày 7/12/2015, ta sẽ tự đánh giá được ai giáo điều hơn ai. Bài này đăng trên website của chính phủ, hy vọng sẽ không bị biến mất như là trang Ý kiến đảng viên (http://baochinhphu.vn/Cac-bai-phat-bieu-cua-Thu-tuong/Thu-tuong-phat-bieu-khai-mac-Dai-hoi-Thi-dua-yeu-nuoc-toan-quoc-lan-thu-IX/243154.vgp)

Ông TBT có để cho Trung Quốc điều khiển không?

Có thể, ông Trọng là người mà Trung Quốc khó điều khiển nhất trong bộ máy lãnh đạo hiện hành. Giả định này dựa trên một lý do: ông Trọng không tham nhũng.

Vì ông Trọng không tham nhũng, nghĩa là ông không bán mình vì tiền, nên ta có thể suy diễn rằng Trung Quốc khó nắm được ông Trọng bằng con đường lợi ích vật chất. Và một người không bán mình vì tiền, người đó còn tự trọng cá nhân, còn biết thế nào là nhục, và một người còn tự trọng cá nhân có thể sẽ còn nghĩ đến danh dự quốc gia. Một người nghĩ đến danh dự quốc gia sẽ không để cho lãnh đạo nước khác điều khiển vô điều kiện.

Một lần nữa, xin nhắc lại rằng quý vị có thể phản đối hoặc đồng tình với những phân tích từ góc độ tâm lý học này. Phân tích này chỉ mang tính suy diễn, và chẳng ai trong chúng ta có độc quyền về chân lý.

Tuy nhiên phân tích tâm lý học này được bổ sung bởi một lập luận dựa trên sơ sở thực tiễn: Trung Quốc khó có thể điều khiển ông Trọng khi mà họ không dùng tiền để mua chuộc được ông, khi ông không có những « điểm yếu » để có thể bị Trung Quốc nắm đằng chuôi.

Những kẻ tham nhũng có làm ăn với Trung Quốc rất dễ tự đặt mình vào vị thế này: những lợi ích kinh tế họ nhận được từ Trung Quốc càng lớn thì lưỡi kiếm của Trung Quốc càng sắc, và họ không chỉ bị nắm đằng chuôi mà lưỡi kiếm có thể còn đang kề cận cổ. Xét về logic, những người này sẽ bị lệ thuộc vào Trung Quốc sâu sắc hơn, họ sẽ bị trói chặt hơn, nếu so với một người không tham nhũng và không nắm kinh tế, như ông Trọng.

Và trong trường hợp toàn bộ quyền lực tập trung vào tay một người duy nhất trong số những người tham nhũng có quan hệ kinh tế đặc biệt với Trung Quốc, thì kịch bản chẳng mấy khó hình dung: Trung Quốc chỉ cần nắm yết hầu của người này thì sẽ nắm được toàn bộ Việt Nam.  Nếu ngày nay Trung Quốc chưa nắm được toàn bộ Việt Nam, thì có thể đấy là do cơ chế lãnh đạo tập thể, do BCT còn có 16 người, và BCHTW có 175 người. Nắm 175 người dĩ nhiên là khó hơn khi chỉ cần nắm một người duy nhất. Không chỉ vì số tiền phải bỏ ra sẽ quá lớn, mà còn vì trong số đó hẳn vẫn còn có những người có tinh thần dân tộc.

Nếu ông Trọng không đi đêm với Trung Quốc thông qua các dự án kinh tế và các hợp đồng kinh tế (ở điểm này tôi chỉ giả định vì hoàn toàn không có thông tin), thì ông vẫn còn có thể giữ được một sự độc lập nhất định đối với sự chi phối đến từ Trung Quốc. Ông có thể độc lập với Trung Quốc hơn, so với những người hưởng những khoản lợi ích kếch xù nhờ các khoản hoa hồng (nếu dùng mỹ từ) hay các khoản hối lộ (nếu gọi thẳng tên sự việc) có được do làm ăn với Trung Quốc. Giả sử hội nghị Thành Đô có những thỏa ước bí mật bất lợi cho Việt Nam, thì ông Trọng không phải chịu trách nhiệm về việc đó, mà người tiền nhiệm của ông phải chịu trách nhiệm. Nếu ông Trọng hiểu nguyên tắc này, ông sẽ có cách thoát khỏi sự chi phối của Trung Quốc.

Đến đây có thể đưa ra một phản bác: đảng của ông Trọng lệ thuộc vào đảng cộng sản Trung Quốc.

Dĩ nhiên, các phát ngôn của ông Trọng cho thấy ông đặt đảng lên trên hết, ông không chối bỏ điều này, trái lại dường như ông còn tự hào nữa, tự hào một cách thành thực. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào phát ngôn thì không chỉ mình ông mà hầu như mọi lãnh đạo đều đặt đảng lên trên đất nước. Xin đọc lại bài diễn văn của Thủ tướng mà tôi dẫn ở đoạn trên để thấy Thủ tướng đặt đảng lên trên nhân dân như thế nào. Và không chỉ Thủ tướng.  Đây là sự thống nhất mang tính sống còn của bộ máy lãnh đạo, sẽ chỉ viển vông nếu hy vọng rằng sự tranh giành quyền lực trong đảng, mà ta đang chứng kiến, có thể làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của đảng.

Điều đáng nói ở đây là ông Trọng khác những lãnh đạo khác ở chỗ: ông bảo vệ đảng không phải cho lợi ích vật chất của cá nhân ông (vì ông không tham nhũng), không phải cho tương lai chính trị của con cái ông. Vậy, có thể nghĩ rằng ông Trọng bảo vệ đảng vì sự tồn tại của đảng, vì ý thức hệ đã ăn sâu vào não trạng của ông. Có thể ông thành thực cho rằng đó là sứ mệnh của ông, một TBT.

Những kẻ tham nhũng sẽ bảo vệ đảng và bảo vệ cơ chế chính trị này còn quyết liệt hơn ông Trọng. Họ có động cơ cá nhân để làm việc đó, cái động cơ mà ông Trọng không có. Bởi vì đảng và cơ chế hiện hành cho phép họ tham nhũng (mà đồng thời lại vẫn có thể giấu nhẹm toàn bộ sự thật về sự tham nhũng của họ), cho phép họ toàn quyền biến tài sản quốc gia thành tài sản riêng của gia đình họ, cho phép họ quy hoạch con cái vào các chức vụ lãnh đạo then chốt, hoặc đặt con cái vào các vị trí nghề nghiệp có thể thao túng nền kinh tế quốc gia. Nếu tiến hành cải cách để dân chủ hóa thì cũng đồng nghĩa với việc đặt dấu chấm hết cho các tham vọng về một quyền lực trường tồn cho dòng dõi của họ.

Giả định rằng ông Trọng xem việc làm trong sạch đảng và việc duy trì sự tồn tại của đảng là sứ mệnh của ông, như ông không ngừng viết trong các bài diễn văn, thì, hơn ai hết, là một tiến sĩ ngành Xây dựng đảng, ông Trọng sẽ phải hiểu rằng, sở dĩ đảng cộng sản Việt Nam nắm được vị trí lãnh đạo hiện nay, là vì đảng đã cùng dân tộc thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập (chúng  ta không thể phủ nhận được thực tế này, cho dù vấn đề này vẫn luôn được nhìn nhận khác nhau, và luôn là tâm điểm của mọi cuộc tranh cãi và mọi bất đồng của chúng ta).

Hơn ai hết, ông Trọng phải hiểu rằng nếu để mất độc lập thì đảng của ông không còn lý do để tồn tại. Ông Trọng có lẽ hiểu điều này hơn những người đang đứng trong guồng máy lãnh đạo cùng với ông, dù là cùng phe hay khác phe với ông, những người mà tiền bạc đối với họ là quá quan trọng. Nếu ta bỏ thời gian đọc những gì ông Trọng viết, ta sẽ thấy ông rất hiểu điều này. Dù sao ông cũng là một người được đào tạo một cách bài bản. Vì thế, một cách logic, ông Trọng phải hiểu rằng : để bảo vệ đảng phải bảo vệ được độc lập dân tộc.

Lo-gic này chưa hẳn đã vận hành trong đầu những người khác, những người bằng mọi giá cơ cấu con cái vào thành phần lãnh đạo, những người trở nên giàu có bằng con đường quan chức, nghĩa là thông qua các hình thức tham nhũng khác nhau, những người thông qua việc hưởng lợi nhuận từ các hợp đồng kinh tế với Trung Quốc mà vô tình hay cố tình biến đất nước này thành sân sau của Trung Quốc, tóm lại, những người mà đảng đối với họ chỉ là công cụ cho cái mưu cầu lợi ích của họ.

Nếu ông Trọng hiểu rằng để bảo vệ đảng phải bảo vệ được độc lập dân tộc thì ông buộc phải giữ độc lập với Trung Quốc, như là các vị tiền nhiệm của ông thời kỳ trước 1990, và ông có điều kiện để giữ độc lập với Trung Quốc, nói cách khác, ông có điều kiện để thoát khỏi sự thao túng của Trung Quốc, điều kiện đó là sự liêm khiết về tiền bạc của ông, là ông không tham nhũng, là ông không chịu bán mình.

Dù ông Trọng có tư tưởng thân Trung hay không, dù ông có cầm đầu phái thân Trung như người ta đang đồn đại hay không, thì một số sự kiện gần đây cho thấy ông Trọng không phải là lá bài của Trung Quốc, và ông Trọng giữ được một sự độc lập nhất định đối với Trung Quốc.

Tôi chỉ đủ thời gian để nói về hai sự kiện mà tôi cho rằng có thể có liên quan đến nhau : phản ứng trước vụ giàn khoan 981 và chuyến công du Hoa Kỳ của Tổng bí thư.

Trong thời kỳ dàn khoan 981 ngự trị trên vùng biển Việt Nam, năm 2014, người dân Việt bất bình vì không thấy TBT lên tiếng. Và có tin đồn là ông đề nghị gặp Chủ tịch Trung Quốc nhưng Tập Cận Bình từ chối. Theo thông tin của GS Nguyễn Minh Thuyết trên BBC Việt ngữ: « khi hạ đặt giàn khoan 981, nhiều thông tin quốc tế cho thấy phía Việt Nam và đặc biệt là tổng bí thư cũng đã nhiều lần đề nghị tiếp xúc nhưng cũng khoảng 20 lần từ chối. » Động thái này của ông Trọng đã bị nhìn nhận theo một hướng rất tiêu cực, người ta cho rằng ông cùng hội cùng thuyền với Tập Cận Bình.

Tuy nhiên, giờ đây chúng ta đã có một độ lùi thời gian cần thiết để nhìn nhận lại sự việc, đặt nó trong một chuỗi các sự kiện khác để cố gắng hiểu những gì ẩn đằng sau. Ông TBT không nói gì, có lẽ vì ông ấy không quen mị dân, và quả thực ông không biết phải nói như thế nào trong hoàn cảnh đó, vì bị kẹt trong tình thế không đủ thực lực để chống lại Trung Quốc bằng vũ lực, và chỉ có cách giải quyết bằng con đường thương lượng, khi bị buộc phải giữ hòa hiếu. Có thể vì thế ông hy vọng rằng việc ông trực tiếp gặp Tập Cận Bình có khả năng dẫn đến một giải pháp nào đó. TBT muốn tìm một giải pháp thực tế và có hiệu quả, thay vì một vài phát ngôn mị dân, phải thế chăng ?

Việc Tập Cận Bình từ chối, và từ chối đến 20 lần như ông Nguyễn Minh Thuyết cho biết, cho chúng ta thấy điều gì ? Sau đây là một số giả thiết : thứ nhất, không có quan hệ gần gũi giữa Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng ; thứ hai, Tập Cận Bình không coi Nguyễn Phú Trọng là một lá bài của Trung Quốc ; thứ ba, Tập Cận Bình coi thường Nguyễn Phú Trọng (từ chối đến 20 lần thì ta không thể nói gì khác hơn là coi thường), có thể do ông ta nghĩ rằng TBT đảng cộng sản Việt Nam không có thực quyền, cũng có thể do ông ta không nắm được Nguyễn Phú Trọng, và cho rằng để giải quyết với Việt Nam thì phải làm việc với những người khác, những người ông ta điều khiển được.

Sau sự việc này, TBT đã thực hiện một bước đi mang tầm chiến lược : công du Hoa Kỳ. Ông Trọng là TBT đầu tiên thăm chính thức Hoa Kỳ và hội đàm với Tổng thống Mỹ. Chuyến thăm của ông Trọng là một bước ngoặt trong lịch sử ngoại giao Việt-Mỹ.  Chúng ta không thể nói khác.

 Điều cần phải phân tích ở đây là : vì sao ông Trọng quyết định thực hiện chuyến công du này ở thời điểm vừa rồi ? Theo thông tin của báo chính thống, phía Mỹ đưa lời mời từ năm 2012. Như vậy, dù đã được mời từ lâu, ông Trọng chỉ quyết định thăm Mỹ vào thời điểm sau khi bị Tập Cận Bình từ chối gặp để trao đổi về vụ giàn khoan. Khi thông tin về chuyến công du của TBT được đưa lên truyền thông, kết quả có lẽ đúng như ông dự tính : Tập Cận Bình vội vàng mời ông Trọng thăm Trung Quốc. Một lần nữa dư luận chung bị kéo về hướng cho rằng ông Trọng thần phục thiên triều. Nhưng nếu chúng ta bình tĩnh hơn để nhớ lại trước đó Tập Cận Bình đã kiêu ngạo từ chối ông như thế nào thì có thể chúng ta sẽ nghĩ rằng đấy là một bước lùi của Tập Cận Bình, và là một thắng lợi của Nguyễn Phú Trọng : Chủ tịch Trung Quốc đã buộc phải mời ông thăm chính thức.

TBT trong chuyến đi Mỹ đã mời Tổng thống Hoa Kỳ thăm Việt Nam. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho hay ông Obama đã nhận lời. Ngay lập tức Tập Cận Bình qua thăm Việt Nam. Gần mười năm qua, kể từ 2006, không một chủ tịch Trung Quốc nào thăm chính thức Việt Nam. Và cách đó một năm ông ta còn không thèm tiếp TBT Việt Nam. Vậy mà lúc này đích thân sang thăm Việt Nam. Phải chăng giờ đây Tập Cận Bình cảm thấy rằng bộ máy lãnh đạo Việt Nam đang tuột ra khỏi vòng kiểm soát của Trung Quốc, rằng ông ta phải gây áp lực bằng sự hiện diện trực tiếp của mình, và củng cố phe cánh của những người mà ông ta đã nắm được ?

Cần lưu ý một chi tiết tưởng như nhỏ mà Ông Bùi Thế Giang, Vụ trưởng Vụ Tây Âu – Bắc Mỹ, Ban Đối ngoại TƯ Đảng, người chuẩn bị cho chuyến công du của ông Trọng, cho biết một cách công khai : « Có những người phản đối chuyến đi này rất kịch liệt nhưng cũng có những người thúc đẩy nó một cách tinh tế. » Phát biểu của ông Giang hé lộ rằng những người phản đối thuộc hạng « đầu tàu » (chữ dùng của ông). Điều này thật thú vị vì nó khiến ta phải đặt câu hỏi về những người phản đối chuyến đi của ông Trọng. Và nếu coi ông Trọng cầm đầu phái thân Tàu, thì sẽ phải giải thích như thế nào về chuyến thăm Mỹ của ông ? Phạm Chí Dũng trong một bài viết gần đây cũng nhắc lại rằng trong thời điểm TBT đang thăm Mỹ thì ở Việt Nam giới hoạt động nhân quyền bị an ninh đàn áp dữ dội, thô bạo. Quyết định đàn áp nhân quyền vào lúc đó không thể là một quyết định do ông Trọng hay phái của ông Trọng đưa ra, mà là nó phải được đưa ra bởi những người muốn hạ bệ uy tín của ông.

Câu này của ông Bùi Thế Giang cũng nên lưu ý: "Nếu chúng ta không có độc lập tự chủ thì không có chuyến đi của Tổng Bí thư đến Mỹ đâu"

Ngoài ra, ở bài diễn văn bế mạc NHTW 14, trong hai điểm mà ông Trọng nhấn mạnh có việc khẳng định về sự ký kết hiệp định TPP. Thông điệp ngầm chắc hẳn muốn gửi đi là ông ủng hộ và xúc tiến cho hiệp định này.

Từ những phân tích trên đây, có thể hình dung rằng nếu ông Trọng được lựa chọn lần này thì đó chưa hẳn đã là sự lựa chọn xấu nhất. Và cuộc đấu mà dường như ông Trọng đang tiến hành chưa hẳn đã là một cuộc đấu vì quyền lực cho bản thân ông. Nếu năm 2012 ông chống tham nhũng, thì có thể lần này ông đấu tranh để chống việc Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc.

Những gì tôi đưa ra ở đây đều chỉ là giả định, xin lưu ý như vậy. Những giả định này sẽ được kiểm chứng khi các điều kiện về thông tin cho phép.

BCHTW vào năm 2012 đã chọn đứng về phía tham nhũng, đã bảo vệ tham nhũng, đã bị khuất phục trước sức mạnh của đồng tiền, như kết quả của HNTW 6 cho thấy.

Điều này hoàn toàn có thể lặp lại tại thời điểm này, tại đại hội XII. Bởi chưa bao giờ các hình thức mua chuộc, bằng tiền hay bằng những hình thức khác, được sử dụng nhiều như trong những năm qua.

Tuy nhiên, sự leo thang của Trung Quốc trên biển Đông có thể sẽ khiến cục diện thay đổi, có thể sẽ khiến cho số người trong BCHTW lựa chọn đứng về phía độc lập dân tộc lớn hơn là số người lựa chọn đứng về phía tham nhũng, nguyên nhân dẫn đến sự lệ thuộc toàn diện của Việt Nam vào Trung Quốc.

Chỉ sau ít ngày nữa chúng ta sẽ biết họ chọn cái gì.

(Còn tiếp)

Paris, 20/1/2016

Nguyễn Thị Từ Huy

 

Bài bình luận

Và có tin đồn là ông đề nghị gặp Chủ tịch Trung Quốc nhưng Tập Cận Bình từ chối. Theo thông tin của GS Nguyễn Minh Thuyết trên BBC Việt ngữ: « khi hạ đặt giàn khoan 981, nhiều thông tin quốc tế cho thấy phía Việt Nam và đặc biệt là tổng bí thư cũng đã nhiều lần đề nghị tiếp xúc nhưng cũng khoảng 20 lần từ chối. » Thông tin này là theo lời ông Hoàng Ngọc Giao, link đã dẫn: http://bibisyuk.com/s__www/vietnamese/vietnam/2015/11/151104_xi_jinping_visit_hangout Tiến sỹ Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng Viện Chính sách pháp luật và phát triển, nhận định với BBC trong tuần trước: "Tôi đánh giá chuyến đi này của ông Tập Cận Bình không phải là chuyến đi chủ động mà chuyến đi này xảy ra sau khi có chuyến đi sang Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. "Bởi vì khi hạ đặt giàn khoan 981, nhiều thông tin quốc tế cho thấy phía Việt Nam và đặc biệt là tổng bí thư cũng đã nhiều lần đề nghị tiếp xúc nhưng cũng khoảng 20 lần từ chối.

Phan tich rat hay - khoa hoc va`chinh xac.- Cam' on tac gia.