Song Chi.
Trước khi rời VN, tôi đã sống ở Sài Gòn suốt 34 năm kể từ năm 1975, chưa kể khoảng thời gian rải rác trước đó nữa, tính ra cũng phải 38,39 năm. Sài Gòn đối với tôi, vì vậy, là nơi gắn bó nhất, nhiều kỷ niệm nhất. Dù không sinh ra ở Sài Gòn, trong thâm tâm, tôi vẫn tự nhận mình là người Sài Gòn. Và khi đi xa, cái nơi tôi nhớ nhiều nhất khi nghĩ về VN, tất nhiên, cũng là Sài Gòn.
Đã 38 năm Sài Gòn đổi chủ và đổi tên. Đi qua những biến cố, thăng trầm dữ dội, những sự đảo lộn, đổi trắng thay đen trớ trêu nhất của lịch sử kể từ cái ngày 30 tháng Tư 1975, đi qua những giai đoạn cực kỳ khó khăn và bây giờ vẫn tiếp tục ở giữa con bão của một thời kỳ khó khăn mới, Sài Gòn đã thay đổi nhiều. Rất nhiều.
Chỉ tính riêng dân số, Sài Gòn từ hơn 3 triệu-3 triệu rưỡi người trước năm 1975, bây giờ đã tăng lên trên dưới 10 triệu người. Nhà cửa xây dựng nhiều. Nhiều tuyến đường mới được mở. Nhiều khu đô thị mới được xây. Cửa hàng, quán xá mọc lên khắp nơi. Dân số tăng gấp ba nên lúc nào cũng đông, chật chội, từ trong hẻm nhỏ ra tới ngoài đường lớn, ở đâu và vào bất cứ giờ nào trong ngày cũng đầy người là người.
Nhiều khách du lịch nước ngoài đến Sài Gòn cứ ngạc nhiên không biết người dân thành phố này làm gì mà sao lúc nào cũng thấy có người đang chạy xe ở ngoài đường hoặc ngồi trong quán café, quán nhậu vào những giờ lẽ ra họ phải ở trong các cơ quan, xí nghiệp, nơi làm việc. Họ không biết rằng đối với một số lượng lớn cư dân của thành phố này, mưu sinh là ở ngoài đường chứ không phải ngồi một chỗ, ở một nơi cố định nào đó. Từ những người buôn bán trên vỉa hè, những người bán hàng rong qua các nẻo đường cho tới những người làm việc freelance, và không hiếm khi những cuộc trò chuyện trong những quán café, quán nhậu cũng là thảo luận chuyện làm ăn. Đó cũng là một đặc tính của một thành phố đang phát triển trong một quốc gia mà luật pháp và mọi thứ chưa ổn định, chưa chặt chẽ như Sài Gòn.
38 năm trôi qua, trong diện mạo của Sài Gòn cũng như bên trong nếp sống, nếp văn hóa của người dân có nhiều cái khác, nhiều thứ mất đi, nhiều thứ thêm vào. Thêm đông đúc, ồn ào, ô nhiễm, thêm nạn kẹt xe, tắc đường, những cơn ngập nặng vào mùa mưa, và tai nạn giao thông tăng lên gấp nhiều lần. Cùng với cái thêm đó, ngày càng mất đi những khoảng không gian bình yên hiếm hoi, những ngôi nhà với kiến trúc xưa, những khu phố cổ, những con đường yên tĩnh với hai hàng lá me xanh ngát và sự lãng mạn trong đời sống.
Nhưng vẫn có một số đặc tính đã có từ lâu của Sài Gòn không mất đi, ngược lại tiếp tục được củng cố để trở thành bản sắc riêng của thành phố này. Chẳng hạn, cái tính chất mở. Sài Gòn, như tự hồi nào tới giờ là một nơi “đất lành chim đậu”, luôn mở rộng vòng tay đón nhận người nhập cư từ khắp nơi trên đất nước đổ về, học hành, làm việc, sinh sống. Ai cũng có thể có một chỗ đứng nếu siêng năng, ai cũng có thể thành đạt, thành danh nếu có tài và có chí.
Người Sài Gòn từ hồi nào tới giờ luôn luôn cởi mở, phóng khoáng, không phân biệt người tại chỗ với người nhập cư. Nếu như trước năm 1975, trong giới trí thức văn nghệ tràn ngập dân miền Bắc di cư và dân miền Trung, thì bây giờ cũng vậy, trong lớp người giàu có, thành đạt lẫn văn nghệ sĩ của thành phố rất nhiều người từ miền Bắc vào sau 1975 hoặc từ các nơi khác đến, tạo thành lớp người Sài Gòn mới. Còn người Sài Gòn cũ thì lại ra đi rất nhiều, những năm sau khi thống nhất, khi phong trào vượt biên đang dâng cao.
Dù bất cứ người ở đâu đến, sau khi sống ở thành phố này một thời gian cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ tính cách, lối sống của dân Sài Gòn, phóng khoáng, rộng rãi từ suy nghĩ đến cách tiêu xài. Không chỉ chi tiêu cho ăn mặc mà đối với các sản phẩm văn hóa, tinh thần, người Sài Gòn cũng chịu chi nhiều nhất nước, từ sách báo, đi xem phim, xem kịch, đi nghe ca nhạc ở phòng trà hàng đêm. Các mô hình nhà văn hóa, câu lạc bộ kiểu như Cung văn hóa Lao Động, Nhà văn hóa Phụ Nữ, Nhà văn hóa Thiếu Nhi…cũng phát triển mạnh nhất ở Sài Gòn-người dân rất chịu khó bỏ thời gian đi sinh hoạt, đi học thứ này thứ kia-từ bơi, khiêu vũ, tennis, làm bánh, nấu ăn, trang điểm, học ngoại ngữ, học đàn…đủ thứ trên đời. Dịch vụ ở Sài Gòn thì vô cùng phong phú, còn cung cách phục vụ khách hàng thì hơn hẳn Hà Nội mấy bậc.
Cùng với tính chất mở, là tính chất tiên phong. Cái gì ở Sài Gòn cũng xuất hiện trước, đi trước, dù không phải bao giờ cũng về đích trước.
Tính chất hội tụ. Nếu như nước Mỹ là vẫn được xem là một melting pot của thế giới thì Sài Gòn cũng vậy, là melting pot của cả nước. Mọi thứ từ nơi khác khi du nhập vào Sài Gòn được hòa trộn thành cái chất riêng của Sài Gòn. Một thành phố có lối sống nhanh, hiện đại. Ai đang ở nơi khác, cảm thấy trì trệ chỉ cần vào Sài Gòn một thời gian, nhập vào cái sức sống hừng hực của thành phố là lại thấy mình năng động lên. Nhưng đôi khi Sài Gòn cũng làm người ta ngộp vì sự đông đúc, ồn ào từ sáng đến khuya, ngộp không khí lẫn ngộp thông tin. Lại cần phải lánh đi đâu đó một thời gian để lắng lại.
38 năm. Sài Gòn không còn là Hòn ngọc Viễn Đông một thời. Sài Gòn, dù phát triển nhiều, nhưng lại xô bồ, ngổn ngang, hỗn độn, do đó cũng xấu xí hơn. Cơ sở hạ tầng, quy hoạch tổng thể, đường xá, giao thông công cộng…chưa theo kịp với đà tăng dân số. Cái sự “ngọc nát vàng phai” ấy không chỉ nằm ở bên ngoài. Trong sự xuống dốc chung về mặt đạo đức xã hội của cả nước, con người Sài Gòn cũng mất đi nhiều nét đẹp, thêm nhiều cái xấu, tỷ lệ tội phạm, nạn cướp giật, tham nhũng cũng nhiều hơn, trắng trợn hơn.
Ở vào thời điểm của đầu thế kỷ XXI này, nếu so sánh với nhiều đô thị của các quốc gia phát triển, Sài Gòn về nhiều mặt vẫn chưa phải là một đô thị đúng nghĩa. Và ở VN cũng chả có thành phố nào đạt được tiêu chuẩn này.
Một đô thị chưa thể gọi là đô thị khi các phương tiện giao thông công cộng chưa phát triển, khi chưa quy hoạch thành từng khu vực riêng biệt: khu hành chính, khu thương mại, khu công nghiệp, khu giải trí, khu dân cư…chứ không thể khắp nơi trên thành phố nhà nào cũng mở cửa làm ăn, buôn bán, khu dân cư ở lẫn với khu buôn bán, văn phòng, trường học, nhà máy, quán nhậu…một cách lộn xộn bát nháo. Sài Gòn chưa có đường trên cao, hay hệ thống metro dưới đất, rất ít nhà vệ sinh công cộng, trạm điện thoại công cộng, thùng rác công cộng. Diện tích cây xanh, diện tích công viên quá ít tính trên tỷ lệ dân số. Sau 38 năm Sài Gòn thậm chí còn không có được một quảng trường lớn là nơi tổ chức các sự kiện có tầm cỡ, là chỗ cho người dân ra ngồi chơi, có những sinh hoạt đường phố như nhiều thành phố lớn khác trên thế giới. Hay những khu phố dành riêng để đi bộ.
Với người dân tại chỗ, một thành phố đáng sống không chỉ vì có nhiều cơ hội học hành, làm ăn, mưu sinh, mà bên cạnh đó, phải có một môi trường sống tốt-ít ô nhiễm, phương tiện đi lại tiện lợi, an toàn, nhiều cây xanh, nhiều công viên tạo lá phổi xanh cho thành phố, công viên và các quảng trường còn là những khoảng thở cho con người bớt ngộp bởi sự đông đúc chật chội luôn hạn chế tầm nhìn, vây hãm đầu óc, không cho tâm trí được nghỉ ngơi. Chứ cả thành phố chỗ nào cũng đầy đặc xe cộ người chen nhau đi lại trong khói bụi, tiếng ồn và cái nóng kinh khủng của xứ nhiệt đới từ sáng sớm đến đêm khuya, con người ta không nổi cáu, nổi khùng, không dễ dàng trút cái nỗi cáu bực đó vào người khác…thì mới là lạ.
Đôi khi đi qua những thành phố đẹp, yên bình ở những quốc gia phát triển, tôi lại chạnh nhớ đến Sài Gòn. Nếu kết thúc của ngày 30 tháng Tư 1975 khác đi, hoặc nếu VN đi theo một con đường khác, đất nước này đã khác hẳn sau 38 năm và Sài Gòn, thành phố tôi yêu, cũng đã khác xa.
Dù sao, tôi vẫn yêu Sài Gòn. Đối với tôi và có lẽ, với rất nhiều người khác, Sài Gòn chẳng bao giờ là thành phố Hồ Chí Minh, chỉ trừ trên giấy tờ hành chính buộc phải ghi theo luật pháp nhà nước Cộng hòa XHCN VN, Sài Gòn luôn luôn chỉ có một cái tên gọi duy nhất là Sài Gòn.
Bài bình luận gần đây